Hình Bìa Quyển Hoàng Tộc Lược Biên Xuất Bản năm 1943
Phụng Châu Phê
“Chuẩn Y”
B. Đ
Khâm Thử
Ngày 21 tháng Giêng năm Bảo Đại thứ 18
(Le 25 Février 1943)
KÍNH TÂU
Ngày 1er Septembre 1942, chúng tôi đã có dâng lên Hoàng Đế Ngự Lãm quyển “CONSTITUTION DE LA FAMILLE IMPÉRIALE D’ANNAM” của chúng tôi soạn và đã được Hoàng Đế chuẩn cho ban bố. Nhưng chúng tôi lại được Hoàng Đế Diện Sắc rằng nên dịch quyển sách ấy ra Quốc Ngữ cho tiện phổ thông.
Nay chúng tôi tuân soạn quyển “HOÀNG TỘC LƯỢC BIÊN” này, nội dung cũng giống như quyển “CONSTITUTION DE LA FAMILLE IMPÉRIALE D’ANNAM” mục đích để cho trong Hoàng Tộc ai xem cũng có thể hiểu ngay được. Chúng tôi lại nhân dịp này xin thêm vào cách đặt tên của Hệ Nhất Chánh và thế thứ tập tước để được đầy đủ hơn.
Vậy Kính dâng lên Hoàng Đế Ngự Lãm để có thể được phép ban bố cho trong Hoàng Tộc xem.
Bổn Triều quán ở làng Gia Miêu Ngoại Trang, tổng Thượng Ban, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá. Đến Triều vua Gia Long (1803), chữ Gia Miêu Ngoại Trang đổi thành Quí Hương, và Tống Sơn đổi thành Quí Huyện.
Ngày trước, Triều Nguyễn chúng ta là họ Nguyễn Văn. Xem như Ngài Trừng Quốc Công, thân sinh ra Đức Triệu Tổ Tịnh Hoàng Đế (Nguyễn Kim), huý là Nguyễn Văn Lưu thì đủ rõ.
Đến triều Vua Minh Mạng (1823), lại phân biệt ra Tôn Thất Nguyễn Phước và Công Tánh Nguyễn Hựu, Tôn Thất Nguyễn Phước là những người đã đi theo Đức Nguyễn Hoàng trong lúc Ngài vào trấn thủ ở Phương Nam, còn những kẻ ở lại ngoài Bắc đều lấy họ Công Tánh Nguyễn Hựu. Hiện bây giờ người ta chỉ để hoặc Tôn Thất hoặc Nguyễn Hựu mà thôi. Ví dụ Tôn Thất Mổ hoặc Nguyễn Hựu Mổ mà thôi.
Tên các vị Vua Tiền Triều đều dùng bộ Thuỷ ( ), từ đời Đức Thế Tôn Hiếu Võ Hoàng Đế dùng cả bộ Nhật ( ) và bộ Thuỷ ( ), và Triều Vua Gia Long trở về sau mới chuyên dùng bộ Nhật ( ).
Năm 1823, Vua Minh Mạng có lựa sẵn hai mươi chữ (toàn bộ Nhật) để đặt tên cho các vị Vua kế thống, sau này Ngài lại làm một bài thơ “Ngự Chế Mạng Danh Thi” gồm có 20 bộ, các Triều Vua sau cứ noi theo thế thứ mà đặt tên cho các Hoàng Tử:
Bài Ngự Chế Mạng Danh Thi
MIÊN
NHƠN
KỲ
SƠN
NGỌC
PHỤ
NHƠN
NGÔN
TÀI
HOÀ
BỐI
LỰC
TÀI
NHƠN
TÂM
NGỌC
THẠCH
HOẢ
HOÀ
TIỂU
Tên các Vị Hoàng Tử con Vua Minh Mạng đều dùng bộ Miên, còn Vua Thiệu Trị bộ Nhơn, đến Đức Đông Cung Hoàng Thái Tử Bảo Long là bộ Phụ (bộ thứ 6 của bài “Ngự Chế Mạng Danh Thi”.
Các nhánh của các Hoàng Tử anh em cùng Đức Minh Mạng đều theo mười bài “Phiên Hệ Thi” mà đặt chữ lót và đặt tên theo lối “Ngũ Hành Tương Sanh” (Thổ, Kim, Thuỷ, Mộc, Hoả”. Bắt đầu tử bộ Thổ đi dần xuống đến bộ Hoả, lại trở lên bộ Thổ.
Đức Gia Long sanh hạ được 13 vị Hoàng Tử, trừ 3 vị tảo thương, còn 10 vị, mỗi vị đều có một bài thơ riêng gọi là “Phiên Hệ Thi”
Mười bài PHIÊN HỆ THI
Ngài Tăng Duệ Hoàng Thái Tử
Ngài Kiến An Vương
MỸ
DUỆ
TĂNG
CƯỜNG
TRÁNG
LIÊN
HUY
PHÁT
BỘI
HƯƠNG
LỊNH
NGHI
HÀM
TỐN
THUẬN
VỶ
VỌNG
BIỂU
KHÔN
QUANG
LƯƠNG
KIẾN
NINH
HOÀ
THUẬT
DU
HÀNH
SUẤT
NGHĨA
PHƯƠNG
DƯỠNG
DI
TƯƠNG
THỨC
HẢO
CAO
TÚC
THỂ
VI
TƯỜNG
Ngài Định Viễn Quận Vương
Ngài Diên Khánh Vương
TỊNH
HOÀI
CHIÊM
VIỄN
ÁI
CANH
NGƯƠNG
MẬU
THANH
KHA
NGHIỂM
KHÁC
DO
TRUNG
ĐẠT
LIÊN
TRUNG
TẬP
CÁT
ĐÀ
DIÊN
HỘI
PHONG
HẠNH
HIỆP
TRÙNG
PHÙNG
TUẤN
LÃNG
NGHI
HẬU
LƯU
THÀNH
TÚ
DIỆU
DIỄN
KHÁNH
THÍCH
PHƯƠNG
HUY
Ngài Điện Bàn Công
Ngài Thiệu Hoá Quận Vương
TÍN
ĐIỆN
TƯ
DUY
CHÁNH
THÀNH
TỒN
LỢI
THOẢ
TRINH
TÚC
CUNG
THỪA
HỮU
NGHỊ
VINH
HIỄN
TẬP
KHANH
DANH
THIỆN
THIỆU
KỲ
TUẤN
LÝ
VẶN
TRI
TẠI
MẪN
DU
NGƯNG
LÂN
TÀI
CHÍ
LẠC
ĐỊCH
ĐẠO
DOẢN
PHU
HƯU
Ngài Quảng Oai Công
Ngài Thường Tín Quận Công
PHỤNG
PHÙ
TRƯNG
KHẢI
QUÃNG
KIM
NGỌC
TRÁC
TIÊU
KỲ
ĐIỂN
HỌC
KỲ
GIA
CHÍ
ĐÔN
DI
KHẮC
TỰ
TRÌ
THƯỜNG
CÁT
TUÂN
GIA
HUẤN
LÂM
TRANG
TUÝ
THẠNH
CUNG
THẬN
TƯ
DI
TẤN
ĐỨC
THỌ
ÍCH
MẬU
TÂN
CÔNG
Ngài An Khánh Vương
Ngài Từ Sơn Công
KHÂM
TÙNG
XƯNG
Ý
PHẠM
NHẢ
CHÁNH
THỦY
HOẰNG
QUY
KHẢI
ĐỂ
ĐẰNG
CẦN
DỰ
QUYẾN
LINH
CỌNG
TRẤP
HY
TỪ
THỂ
DƯƠNG
QUỲNH
CẨM
PHU
VĂN
ÁI
DIỆU
DƯƠNG
BÁCH
CHI
QUÂN
PHỤ
DỰC
VẠN
DIỆP
HIỆU
KHÔN
TƯƠNG
Các nhánh của các Hoàng Tử con Đức Minh Mạng đặt chũ lót theo bài Đế Hệ Thi và đặt tên theo mỗi nhánh mỗi bộ hoặc Mộc, Thuỷ, Mịch, vân…vân…
Bài Đế Hệ Thi
MIÊN
HƯỜNG
ƯNG
BỬU
VĨNH
BẢO
QUÝ
ĐỊNH
LONG
TRƯỜNG
HIỀN
NĂNG
KHAM
KẾ
THUẬT
THẾ
THOẠI
QUỐC
GIA
XƯƠNG
Nhờ có các bài thơ Đế Hệ và Phiên Hệ, Hoàng Tộc chúng ta mới dể phân biệt thế thứ. Ví dụ các chữ Mỹ, Lương, Tịnh, Diên … thì đối ngang với chữ Miên.
Ngày nay trong Hoàng Tộc, về các Hệ Chánh đã đặt tên đến chữ thứ 6 hoặc 7.
Cách đặt chữ lót như trên này là chỉ dùng cho phái đàn ông mà thôi, còn đàn bà thì khác hẳn. Con các vị Vua phần nhiều đặt tên đôi. Trước chữ tên chỉ thêm vào hai chữ Công Chúa. Con các Hoàng Tử gọi là Công Nữ Thị, cháu gọi là Công Tôn Nữ Thị, Công Huyền Tôn Nữ Thị v.v… Ba chữ Công Tôn Nữ Thị dùng chỉ các Cô thuộc hệ Tôn Thất.
Trong Hoàng Tộc chia ra thành từng Phòng, từng Hệ. Một Hệ gồm có nhiều hay ít Phòng là tuỳ theo vị Chúa hay vị Vua ấy sanh hạ nhiều hay ít Hoàng Tử. Mỗi vi Vua hoặc Chúa mở ra một Hệ, mỗi ông Hoàng mở ra một Phòng.
Lăng của Ngài tên gọi là Trường Nguyên, táng ở núi Triệu Tường, thuộc làng Quí Hương, huyện Quí Huyện, tỉnh Thanh Hoá. Lăng của Đức Bà cũng táng gần đó.
Đức Triệu Tổ Tịnh Hoàng Đế và Bà Nguyên Phối đều thờ tại Triệu Miếu trong Kinh Thành nội, nhà thờ Ngài Tả Tướng Lãng Quận Công toạ lạc gần Long Thọ (làng Dương Xuân) Huế.
hiện nay, kể về đàn ông, Hệ Nhứt được khoảng 320 người.
Vì can quốc chánh, nên Hoàng Tử Hiệp và Hoàng Tử Trạch bị tước tịch. Con cháu về sau điều lấy họ Nguyễn Thuận
Đức Thái Tổ Gia Dủ Hoàng Đế đem mấy người cháu nội la` ông Hắc, ôngVỉnh (con Hoàng Tử Hải ) gởi cho vua Lê để làm tin. Mấy ông này vè sau lập nên họ Nguyễn Hựu. Lăng Đúc Thái Tổ Gia Dủ Hoàng đế gọi là Trường Cơ, ở làng La Khê, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Lăng Đức Bà táng tại làng Hải Cát cùng thuộc huyện Hương Trà.
Ngài và Bà đều được thờ tại Chánh Án Trong Thái Miếu (Kinh Thành Nội).
Hệ Nhì có ba Phòng, nam có 270 người. Mỗi Phòng đều có nhà thờ riêng. Nhà thờ ngài Hoà Quận Công và Hào Quận Công đều tại làng Dương Xuân Hạ, tổng Cư Chánh, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thùa Thiên. Nhà thờ ngài Nghĩa Hưng Quận Vương ở làng Phổ Nam, tổng Dương Nổ, huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên.
Ngọc Liên hạ giá cùng Hoàng Tử Vinh, con Mạc Cảnh Uông, Nguyển Phước Vỉnh Lập ra họ Nguyễn Hữu
Ngọc Đĩnh Công Chúa kết duyên cùng Nguyễn Cữu Kiều, lập ra họ Nguyễn Cữu
Lăng Trương Điển, tức lăng của Đức Hy Tôn Hiếu Văn Hoàng Đế, táng tại làng Hải Cát, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. lăng của Đức Bà (Vỉnh Diẻn) hiện ở làng Chiêm Sơn, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.
Ngài và Bà đều được thờ tại Thái Miếu, Án Tả Nhứt.
Trong các vị Hoàng Tử con Đức Hy Tôn Hiếu Văn Hoàng Đế, Hoàng Tử Anh và Hoàng Tử Trung, vì can quốc sự nên bị tước tịch.
Hệ Ba hiện có hai phòng, nam được 340 người. Mỗi phòng có nhà thờ riêng, nhà thờ ngài Khánh Quận Công ở làng Dương Nổ, nhà thờ ngài Vinh Quận Công ở làng Ngọc Anh, cả hai nhà thờ đều thuộc huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên.
Lăng ngài Thần Tôn Hiếu Chiêu Hoàng Đế gọi là Trường Diên, táng tại làng An Bảng, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên. Lăng của Đức Bà tên gọi Vĩnh Diên ở làng Chiêm Sơn, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Đức Thái Tôn Hiếu Chiêu Hoàng Đế và bà Nguyên Phối đều thờ tại Thái Miếu, Án Hữu Nhứt.
Hoàng Tử Vỏvà Hoàng Tử Quỳnh mất sớm, thành vô tự, vì thế nên Hệ Tư không có.
Lăng Đức Thái Tôn Hiếu Triết Hoàng Đế (Trường Hưng), ở làng Hải Cát, Huyện Hương Trà, tỉng Thừa Thiên. Lăng của Đức Bà (Vĩnh Hưng) ở làng An Ninh, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên. Ngài còn lại một Bà thứ hai nữa, táng tại lăng Quang Hưng ở làng Định Môn, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên.
Ngài và hai Bà đều thờ tại Thái Miếu, Tả Nhị Án.
Hệ Năm hiện có 3 phòng, nam 300 người. Ba nhà thờ: nhà thờ Ngài Phước Quận Côngở làng La Ỷ, tổng Dương Nổ; nhà thờ Ngài Cương Quận Công ở làng Lại Thế, tổng Ngọc Anh; Hai nhà thờ này đều ở huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên; nhà thờ Ngài Quốc Oai Công ở làng Vân Thê, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên.
Lăng Đức Anh Tôn Hiếu Nghĩa Hoàng Đế (Trường Mậu), ở làng Kim Ngọc, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Lăng của Đức Bà (Vĩnh Mậu) ở làng Định Môn, huyện Hương Trà.
Ngài và Bà đều thờ tại Thái Miếu, Hữu Nhị Án.
Ngoài Đức Hiển Tôn Hiếu Minh Hoàng Đế ra, các vị Hoàng Tử khác đều vô tự cả, nên không có Hệ Sáu.
Lăng Đức Hiển Tôn Hiếu Minh Hoàng Đế (Trường Thanh) ở tại làng Kim Ngọc, lăng của Đức Bà (Vĩnh Thanh) ở làng Trúc Lâm, hai lăng này đều thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên.
Ngài và Bà đều thở tại Thái Miếu, Tả Tam Án.
Hệ Bảy hiện có 27 Phòng, nam được 1420 người.
Mỗi Phòng đều có nhà thờ riêng và đều ở tỉnh Thừa Thiên, trong các huyện Phú Lộc, Hương Trà, Hương Thuỷ. Ở Tôn Thất xã, tổng An Nông, có nhà thờ Ngài Hoàng Nhị Tử; cùng trong tổng ấy, ở làng Xuân Lai có nhà thờ Ngài Hoàng Nhị Thập Nhứt Tử. Nhà thờ Ngài Hoàng Thập Ngũ Tử, Ngài Hoàng Tam Thập Tử ở làng Vinh Hoà, Ngài Hoàng Tam Thập Tam Tử ở làng Phú An cũng đều tại tổng Diêm Trường.
Các Ngài Hoàng Tứ Tử, Ngũ Tử, Thập Nhị, Thập Lục, Nhị Thập Ngũ, Nhị Thập Lục Tử đều thờ tại làng An Cựu, tổng An Cựu, Ngài Hoàng Cửu Tử có nhà thờ tại làng Lương Quán, tổng Cư Chánh; Ngài Hoàng Nhị Thập Tử nhà thờ tại làng Bảng Lãng, tổng Cư Chánh, huyện Hương Thuỷ.
Ở huyện Hương Trà thì có các nhà thờ các Ngài: Hoàng Thập Tử, Hoàng Thập Thất, Hoàng Thập Bát, Nhị Thập Nhị, Nhị Thập Thất, Tam Thập Nhị, Tam Thập Thất Tử đều tại làng Phú Xuân, tổng Phú Xuân, các Ngài Hoàng Thất Tử, Hoàng Thập Thất Nhứt Tử nhà thờ ở làng Định Môn, tổng Long Hồ; Ngài Hoàng Bát Tử nhà thờ ở làng Hương Cần, tổng Hương Cần; Ngài Hoàng Thập Tam Tử nhà thờ ở làng Vạn Xuân, tổng An Ninh; Ngài Hoàng Thập Cửu Tử nhà thờ ở làng La Chử, tổng Long Hồ; nhà thờ Ngài Hoàng Nhị Thập Tam Tử ở làng An Vân và nhà thờ Ngài Hoàng Nhị Thập Cửu Tử ở làng Long Hồ cũng trong tổng An Ninh.
Lăng của Ngài Túc Tôn Hiếu Ninh Hoàng Đế tên gọi Trường Phong, ở làng Định Môn, lăng của Đức Bà (Vinh Phong) ở làng Long Hồ, đều thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên.
Ngài và Bà đều thờ tại Thái Miếu, Hửu Tam Án.
Hệ Tám chỉ có hai Phòng, đàn ông được 94 người. Nhà thờ Ngài Thiếu Bảo Nghiễm Quận Công thờ tại làng An Ninh Thượng, tổng An Ninh, huyện Hương Trà; nhà thờ Ngài Tường Quan Hầu thờ tại làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thửa Thiên.
Ngài sanh năm 1714, mất năm 1765. Ngài sanh hạ 18 Hoàng Tử:
1
Hoàng Tử Chương
2
Đức Hưng Tổ Hiếu Khương Hoàng Đế
3
Hoàng Tử Mão
4
Thành Quận Công
5
Hoàng Tử Dục
6
Hoàng Tử Điệc
7
Hoàng Tử Kỉnh
8
Hoàng Tử Bản
9
Tuyên Vương
10
Hoàng Tử Yến
11
Hoàng Tử Tuấn
12
Hoàng Tử Khoán
13
Hoàng Tử Hản
14
Hoàng Tử Quyền
15
Hoàng Tử Diệu
16
Đức Huệ Tôn Hiếu Định Hoàng Đế
17
Hoàng Tử Xuân
18
Phước Hưng Công
Và các Bà Chúa:
1
Ngọc Huyền
2
Ngọc Nguyện
3
Ngọc Thành
4
Ngọc Ái
5
Ngọc Nguyệt
6
Ngọc Cư
7
Ngọc Thọ
8
Ngọc Xuyến
9
Ngọc Diệu
10
Ngọc Cơ
Lăng của Đức Thế Tôn Hiếu Vỏ Hoàng Đế tên gọi Thường Thái, táng ở làng La Khê, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên; lăng của Đức Bà tên gọi Vĩnh Thái, táng ở làng Dương Xuân, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.
Đức Thế Tôn Hiếu Vỏ Hoàng Đế và Đức Bà đều thờ tại Thái Miếu, Tả Tứ Án.
Hệ Chín có bảy Phòng, nhân số nam được 350 người.
Nhà thờ Ngài Hoàng Lục Tử và Hoàng Thập Thất Tử đều toạ lạc tại làng Dương Xuân, tổng Cư Chánh, huyện Hương Thuỷ; Ngài Hoàng Tam Tử nhà thờ tại làng Long Hồ, tổng An Ninh, huyện Hương Trà; Ngài Hoàng Tứ Tử nhà thờ tại làng Phổ Trung, huyện Phú Vang; Ngài Hoàng Thất Tử nhà thờ tại làng Xuân Lai, tổng An Nông, huyện Phú Lộc; Ngài Hoàng Thập Tử nhà thờ tại làng Dương Phẩm, tổng An Cựu, huyện Hương Thuỷ; Ngài Hoàng Thập Bát Tử nhà thờ tại làng Công Lương, tổng An Cựu, huyện Hương Thuỷ, đều thuộc tỉnh Thừa Thiên.
Đến Hệ Chín thì vừa hết các Hệ Tôn Thất.
Hai vị Hoàng Tử con Đức Thế Tôn Hiếu Vỏ Hoàng Đế là Đức Duệ Tôn Hiếu Định Hoàng Đế và Đức Hưng Tổ Hiếu Khương Hoàng Đế; đáng lẻ hai Ngài này đều có khai sáng mỗi Ngài một Hệ riêng, nhưng vì Đức Duệ Tôn lại chỉ sanh được một Bà Chúa, còn Đức Hiếu Khương, ngoài Đức Thế Tổ Cao Hoàng Đế khai sáng Hệ Nhứt Chánh, thì không còn vị Hoàng Tử nào nữa.
Lăng Đức Duệ Tôn Hiếu Định Hoàng Đế (Trường Thiệu) ở tại làng La Khê, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, còn lăng Đức Bà vì lâu ngày thất lạc nên hiện không biết ở đâu.
Đức Duệ Tôn Hiếu Định Hoàng Đế và Bà đều thờ tại Thái Miếu, Hữu Tứ Án.
Lăng Đức Hưng Tổ Hiếu Khương Hoàng Đế (Cơ Thánh) táng tại làng Cư Chánh, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên, lăng của Đức Bà Thoại Thánh ở làng Định Môn, huyện Hương Trà. Ngài và Bà đều thờ ở Hưng Miếu tại Kinh Thành Nội.
Cả thảy chín Hệ, trừ Hệ Tư và Hệ Sáu, vì vô tự, nên chỉ còn bảy Hệ mà thôi. Theo bảng tổng kê kỳ tháng 2 năm 1942 các Hệ Tôn Thất gồm có nam 3100 và nữ có 2800 người.
Lăng của Ngài là lăng Diên Thọ, không mấy người không biết, thuộc địa phận làng Định Môn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Lăng Bà Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu và Bà Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu, nguyên phối và đệ nhị phối cùa Ngài cũng đều táng tại vùng ấy cả.
Ngài và hai Bà đều thờ tại Chánh án Thế Miếu và tại Chánh án điện Phụng Tiên ở Kinh Thành Nội.
Hệ Nhứt Chánh gồm có 9 Phòng, tổng cộng về nam được 380 người.
Sau đây là bản kê tên các Phòng, thế thứ các vị Hoàng Tử và chổ nhà thờ toạ lạc.
Lăng của Đức Vua Minh Mạng, là Hiếu Lăng, tại làng An Bằng, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Lăng của Bà Tá Thiên Nhơn Hoàng Hậu gọi là Hiếu Đông Lăng tại làng Cư Chánh, Huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên.
Ngài và Bà đều thờ ở Tả Nhứt Án tại Thế Miếu và tại Tả Nhứt Án điện Phụng Tiên.
Hệ Nhị Chánh là hệ đông nhất trong các Hệ, gồm có 56 Phòng và nam được 1.800 người.
Sau đây là bản kê tên các Phòng, thế thứ các vị Hoàng Tử và chổ nhà thờ toạ lạc.
Số
Thứ
Tự
Thế
thứ
các
vị
Hoàng
Tử
Tước của các vị Hoàng Tử
Chổ nhà thờ toạ lạc
01
3
Thọ Xuân Vương
Phường Phú Cát, Huế
02
4
Ninh Thuận Quận Vương
Làng Tiên Nộn, tổng Mậu Tài, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên
03
5
Vĩnh Tường Quận Công
Phường Phú Cát, Huế
04
6
Phú Bình Quận Vương
Phường Phú Cát, Huế
05
7
Nghi Hoà Quận Công
Làng Hương Cần, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên
06
8
Phù Mỹ Quận Công
Phường Phú Cát, Huế
07
9
Hàm Thuận Quận Công
Phường Phú Hội, Huế
08
10
Tùng Thiện Vương
43b, Quai de la Susse, Huế
09
11
Tuy Lý Vương
Làng Vỹ Dạ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên
10
12
Tương An Quận Vương
Làng Nguyệt Biều, tổng Cư Chánh, Huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên
11
13
Tuân Quốc Công
Phường Phú Cát, Huế
12
15
Lạc Hoá Quận Công
Làng Bình Lộc, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên
13
16
Hà Thành Quận Công
Làng Kim Long, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên
14
18
Nghĩa Quốc Công
Phường Phú Nhuận, Huế
15
23
Trấn Mang Quận Công
Làng Phước Quả, tổng Cư Chánh, Huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên
16
26
Sơn Định Quận Công
Làng An Cựu Tây, Huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên
17
27
Tân Bình Quận Công
Phường Phú Cát, Huế
18
29
Quí Châu Quận Công
Làng Hà Lang, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên
19
30
Quản Ninh Quận Công
Phường Phú Mỹ, Huế
20
31
Sơn Tịnh Quận Công
Làng An Cựu Tây, Huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên
21
32
Quản Biên Quận Công
Phường Phú Mỹ, Huế
22
33
Lạc Biên Quận Công
Phường Phú Mỹ, Huế
23
35
Ba Xuyên Quận Công
Phường Phú Mỹ, Huế
24
36
Kiến Tường Công
Làng Vỷ Dạ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên
25
37
Hoà Thạnh Vương
Phường Phú Mỹ, Huế
26
40
Hoà Quận Công
Phường Long Thọ, Huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên
27
41
Tuy An Quận Công
Phường Phú Mỹ, Huế
28
42
Hải Quận Công
Chánh Tây Môn ngoại, Huế
29
44
Tây Ninh Quận Công
Làng Bình An, Huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên
30
45
Trấn Tịnh Quận Công
Phường Phú Nhơn, Huế
31
47
Quản Trạch Quận Công
Phường Phú Mỹ, Huế
32
48
An Quận Công
Cạnh ga Kim Long, Huế
33
49
Tịnh Gia Công
Làng Kim Long, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên
34
51
Trấn Biên Quận Công
Làng Giạ Lê Thượng, Huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên
35
52
Điện Quận Công
Phường Phú Mỹ, Huế
36
53
Tuy Biên Quận Công
Làng Nam Phổ Nam, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên
37
54
Quế Sơn Quận Công
Làng An Ninh Thượng, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên
38
55
Phong Quận Công
Làng Vỷ Dạ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên
39
56
Trấn Định Quận Công
Làng Bình Môn, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên
40
57
Hoài Đức Quận Công
Phường Phú Cát, Huế
41
58
Duy Xuyên Quận Công
Làng Bình Môn, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên
42
59
Cẩm Giang Quận Công
Phường Phú Mỹ, Huế
43
60
Quản Hoá Quận Công
Làng Phò Trạch, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên
44
61
Nam Sách Quận Công
Làng Trường Cưởi, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên
45
65
Trấn Quận Công
Phường Phú Hội, Huế
46
66
Hoằng Hoá Quận Công
Phường Phú Cát, Huế
47
68
Tân An Quận Công
Làng Nam Phổ Nam, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên
48
69
Bảo An Quận Công
Phường Phú Mỹ, Huế
49
70
Hâu Lộc Quận Công
Phường Phú Mỹ, Huế
50
71
Kiến Hoà Quận Công
Làng An Cựu Tây, Huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên
Lăng Đức Thiệu Trị (Xương Lăng) táng tại núi Thuận Đạo, Huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên. Lăng của Bà Nghi Thiên Chương Hoàng Hậu (Xương Thọ Lăng) ở làng Cư Chánh, Huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên. Đức Thiệu Trị và Bà Nguyên Phối đều thờ tại Thế Miếu, Hữu Nhứt Án và tại Hữu Nhứt Án Điện Phụng Tiên.
Hệ Ba Chánh, kể về nam nhân số 280 người mà gồm có 15 Phòng cả thảy.
Số
Thứ
Tự
Thế
thứ
các
vị
Hoàng
Tử
Tước của các vị Hoàng Tử
Chổ nhà thờ toạ lạc
01
1
An Phong Quận Vương
Làng Thanh Thuỷ, Huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên
02
3
Thái Thạnh Quận Vương
Làng An Cựu, Huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên
03
4
Thoại Thái Vương
Phường Phú Cát, Huế
04
6
Hoằng Trị Vương
Phường Phú Cát, Huế
05
7
Vĩnh Quận Công
Làng An Cựu, Huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên
06
8
Gia Hưng Vương
Phường Phú Cát, Huế
07
9
Phong Lộc Quận Công
Làng Phù Ninh, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên
08
10
An Phước Quận Vương
Phường Phú Cát, Huế
09
12
Tuy Hoà Quận Vương
Phường Phú Hội, Huế
10
16
Hương Sơn Quận Công
Phường Phú Cát, Huế
11
18
Mỹ Lộc Quận Công
Phường Huệ An, Kinh Thành Nội
12
23
Kỳ Phong Quận Công
Phường Phú Cát, Huế
13
25
Phú Lương Công
Làng Xuân Hoà, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên
14
26
Kiên Thái Vương
Phường Phú Nhuận, Huế
15
29
Văn Lãng Quận Vương
Làng Dương Xuân, Huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên
Hệ Tứ Chánh là Hệ của các vị Hoàng Tử con nuôi Đức Dực Tôn Anh Hoàng Đế (Tự Đức)
Đức Dực Tôn Anh Hoàng Đế (Tự Đức) sanh năm 1829, mất năm 1883, vì không có con nên phải nuôi ba người cháu: Đức Cung Tôn Huệ Hoàng Đế (Dục Đức) con Ngài Thoại Thái Vương; Đức Cảnh Tôn Thuần Hoàng Đế (Đồng Khánh) và Đức Giản Tôn Nghị Hoàng Đế (Kiến Phước) đều là con Ngài Kiên Thái Vương.
Khiêm Lăng (lăng của Đức Tự Đức) ở tại làng Dương Xuân Thượng, Huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên. Lăng của Bà Lệ Thiên Anh Hoàng Hậu gọi là Khiêm Thọ Lăng cũng ở vùng ấy.
Ngài và Bà đều thờ tại Tả Nhị Án Thế Miếu và Tả Nhi Án Phụng Tiên.
Đức Cung Tôn Huệ Hoàng Đế là Trưởng Tử của Vua Tự Đức (con nuôi).
Thọ lãnh di chiếu của Vua Tự Đức, Ngài được tôn lên ngôi kế vị ngày 20/7/1883 niên hiệu Dục Đức. Sau 3 ngày đăng quang, ngày 23/7/1883, các đại thần phụ chính Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường, cưỡng chế bắt giam ở Dục Đức Đường, rồi tôn lập Ngài Văn lãng Quận Công, huý Nguyễn Phúc Hồng Dật (em thứ 29 của Đức Vua Tự Đức) lên ngôi.
Đức Dục Đức băng hà ngày 6/10/1883.
Lăng của Ngài hiệu An Lăng, tại làng An Cựu, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên.
Ngài có 11 Hoàng Tử và 8 Công Chúa. Hệ Tư Chánh có 4 phòng.
- Hoàng Tử:
1
Bửu Cương
2
Bửu Thi
3
Bửu Mỹ
4
Bửu Nga
5
Bửu Nghi
6
Bửu Côn
7
Bửu Lân, sau này là Vua Thành Thái
8
Bửu Chuân
9
Bửu Thiện, Tuyên Hoà Vương
10
Bửu Liêm, Hoài An Vương
11
Bửu Lộc, Mỹ Hoá Quận Công
- Công Chúa:
1
Mỹ Lương (bà chúa Nhất)
2
Tân Phong (bà chúa Tám)
3
6 Công Chúa không rõ tên
Đức Dục Đức và Bà đều thờ tại Cung Miếu trong Đại Nội kinh thành Huế.
Đức Giản Tôn Nghị Hoàng Đế, con thứ 3 (con nuôi) của Đức Tự Đức. Ngài khai lập Hệ Năm Chánh.
Ngài được tôn lập lên ngôi đặt niên hiệu Kiến Phước vào tháng 12/1883. Ngài ở ngôi với việc triều chính có 2 đại thần phụ chính Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường quyết đoán.
Ngài tức vị chưa được bao lâu thì lâm bệnh và băng hà vào ngày 31/7/1884.
Lăng của Ngài hiệu Bối Lăng, ở phía trái Khiêm Lăng, tại làng Dương Xuân Thượng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.
Đức Cảnh Tôn Thuần Hoàng Đế là Hoàng Tử thứ 2 (con nuôi) của Đức Tự Đức. Ngài khai lập Hệ Sáu Chánh.
Ngài đức tính thuần hoà, thích trang sức và giao hảo với Pháp. Sau ngày Đức Hàm Nghi xuất bôn ban hịch Cần Vương chống Pháp, Ngài được tôn lên ngôi ngày 19/9/1885, đặt niên hiệu là Đồng Khánh.
Trong lúc đang ở ngôi thì Ngài lâm bệnh và băng hà ngày 28/1/1889.
Lăng của Ngài hiệu Tư Lăng tại làng Dương Xuân Thượng, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên.
Ngài được tôn thờ tại Tả Tam Án ở Thế Miếu và Tả Tam Án điện Phụng Tiên (32) trong Đại Nội kinh thành Huế.
Hoàng Hậu của Đức Đồng Khánh.
- Thánh Cung Hoàng Hậu, huý Nguyễn Hữu Thị, con Ngài Vĩnh Lai Quận Công, Cơ Mật viện Đại thần Nguyễn Hữu Độ, táng ở Tư Minh Lăng, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên.
- Tiên Cung Hoàng Hậu họ Dương (sinh mẫu của Đức Khải Định).
Đền thờ Thánh Cung Hoàng Hậu tại Tả Tam Án ở Thế Miếu trong Đại Nội kinh thành Huế.
Đức Đồng Khánh có 6 Hoàng Tử và 3 Công Chúa.
- Hoàng Tử:
1
Bửu Đảo, sau này là Vua Khải Định
2
Bửu Tung, An Hoá Quận Vương
3
Tảo thương
4
Bửu Nga
5
Bửu Cát
6
Bửu Quyên
- Công Chúa:
Chỉ còn một Công Chúa là Ngoc Lâm.
Các hệ chánh coi như kết thúc với Hệ Sáu Chánh, vì những hoàn cảnh chung của đất nước, nên các triều Vua kế tiếp chưa hoàn thành tôn đồ phổ hệ, cũng như Quốc Sử Quán chưa ấn hành "Đại Nam thực lục" kế tiếp.
Trong Hoàng Tộc có 9 Hệ Tôn Thất và 6 Hệ Chánh, nhân số tổng cộng được 10.800 người. (Theo bản kê tháng Février 1942).
Đứng đầu mỗi Hệ có một viên Tư Giáo.
Về các Hệ Tôn Thất, Hê Tư, Hệ Sáu không có, về các Hệ Chánh thì Hệ Ngũ Chánh vô tự, Hệ Lục Chánh nhân số quá ít, nên chỉ đặt 11 viên Tư Giáo mà thôi; Tư Giáo gồm các Hệ sau: Hệ Nhứt, Hệ Nhì, Hệ Ba, Hệ Năm, Hệ Bảy, Hệ Tám, Hệ Chín, Hệ Nhứt Chánh, hệ Nhị Chánh, Hệ Ba Chánh, Hệ Tứ Chánh.
Tư Gíao là một chức thuộc quan, có cái trọng trách nối liền người trong Hệ với Chánh Phủ. Họ cũng như Lý Trưởng ở các làng, bảo vệ quyền lợi cho người trong Hệ, giữ gìn trật tự, coi về việc sanh tử, giá thú và căn cước tánh hạnh của những người trong Hoàng Tộc.
Dưới quyền các viên Tư Giáo có các viên Trưởng Phòng, một công chức không lương, coi về viêc khai báo trong Phòng.
Ngoài Trưởng Phòng và Tư Giáo lại có những viên Chủ Tự hay Tôn Tước, giữ việc kỵ lạp cúng tế trong Phòng và để phái đi lạy các nơi Tôn Lăng Miếu Điện.
Các Hệ và các Hệ Chánh đều thuộc dưới quyền Tôn Nhơn Phủ. Ngày trước đứng đầu Phủ Tôn Nhơn là một vị Hoàng Thân nhưng gần đây thì Phủ Tôn Nhơn do một quan Thượng Thơ kiêm nhiếp. Ấn quan thì có tả, hữu tôn khanh dưới nữa thì đến thuộc quan và viên dịch. Quan Viện ở Phủ Tôn Nhơn đều lựa những người trong Hoàng Tộc. Quan Kiêm Nhiếp Phủ Vụ quản cố các công việc thuộc về các người trong Hoàng Tộc từ những việc lễ nghi đến hành chánh và tư pháp.
Các Tôn Lăng Miếu Điện đều do các Quan viên ngạch Kiểm Nghi trông coi, các viên quan ấy cũng đều là người trong Hoàng Tộc vừa thuộc quyền Bộ Lễ Nghi vừa thuộc quyền Tôn Nhơn Phủ.
Con cháu các ngài Hoàng Tử , mỗi đời có một người ấm tập theo các tước dưới đây:
Các ngài Thân Vương và Quận Vương:
Con tập tước
Quận Công
2-1M
Cháu tập tước
Hương Công
3-1M
Thế thứ ba tập tước
Kỳ Ngoại Hầu
4-1M
Thế thứ tư tập tước
Tả Quốc Khanh
5-1M
Thế thứ năm tập tước
Phụng Quốc Uý
6-1M
Các ngàiThân Công:
Con tập tước
Huyện Công
2-2M
Cháu tập tước
Huyện Hầu
3-2M
Thế thứ ba tập tước
Trợ Quốc Khanh
4-2M
Thế thứ tư tập tước
Trợ Quốc Uý
6-1M
Thế thứ năm tập tước
Phụng Quốc Lang
6-2M
Các ngài Quốc Công:
Con tập tước
Hương Hầu
3-2M
Cháu tập tước
Trợ Quốc Khanh
4-2M
Thế thứ ba tập tước
Tả Quốc Uý
5-2M
Thế thứ tư tập tước
Tả Quốc Lang
6-2M
Các Ngài Quận Công:
Con tập tước
Kỳ Ngoại Hầu
4-1M
Cháu tập tước
Tả Quốc Khanh
5-1M
Thế thứ ba tập tước
Trợ Quốc Lang
6-1M
Thế là con cháu các Ngài Thân Vương, Quận Vương và Thân Công được năm đời ấm tập, con cháu các Ngài Quốc Công được bốn đời, còn con cháu các Ngài Quận Công chỉ có ba đời ấm tập.
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc HẬU DUỆ VUA MINH MẠNG.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc HẬU DUỆ VUA MINH MẠNG
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.