GIA

PHẢ

TỘC

NGÔ-LÊ

(CỦ-CHI)
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
VIẾT VỀ THUỶ TỔ CỦA DÒNG HỌ
Gốc tích dòng họ không biết xuất phát từ đâu, vì các đời trước không ghi chép hoặc kể lại.Dựa vào những câu chuyện truyền miệng,có thể tạm nêu mấy ý sau:
1/-Ông Cố Tổ của con cháu họ NGÔ-LÊ (vùng Bàu Điều và các vùng phụ cận) tên NGÔ VĂN VỆN. Ông sinh vào khoảng năm Bính Tuất 1826 và mất vào ngày 26/6 (không biết năm).Quê quán ở Sóc Lào--Bà Nhã (nay thuộc Xã Đôn Thuận, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh).Vào khoảng năm 1846, Ông theo người chú ruột tên NGÔ VĂN LINH VÀ BÀ cÔ 5 (KHÔNG BIẾT TÊN)đến lập nghiệp vùng Làng Phước An, tổng Dương Hoà Thượng, huyện Bình Long, phủ Tân Bình (thời Pháp thuộc là Làng Phước An, sau là Phước Hiệp,tổng Long Tuy Hạ, huyện Hốc Môn, tỉnh Gia Định).
Sau đó, Ông VỆN kết hôn với Bà LÊ THỊ PHẬN, sinh khoảng năm Canh Dần (1830), mất vào ngày 16/12 (không biết năm) ở địa phương.
2/-Bà Phận được thừa hưởng của cha mẹ và đứng tên sở hữu chủ số ruộng đất ở khu vực Bàu Điều (khoảng trên 50 hectares), do đó, con cháu về sau tuy gốc là họ NGÔ (họ cha), nhưng phải khai theo họ mẹ là họ LÊ, để được thừa hưởng số ruộng đất nầy theo qui định của chính quyền Pháp thời bấy giờ.
3/-Ông VỆN và Bà PHẬN sinh được 8 người con:
*Con trai thứ hai tên LÊ VĂN NGHIÊM.
*Con trai thứ ba tên LÊ VĂN NGHIỆM.
*Con gái thứ tư tên LÊ THỊ HẰNG.
*Con trai thứ năm (không biết tên), không lập gia đình nên nhánh nầy không có nối dõi).
*Con gái thứ sáu tên LÊ THỊ KHẢNH (kết hôn với Ông TRẦN VĂN GIANG).
*Con trai thứ bảy tên LÊ VĂN CHIÊU.
*Con trai thứ tám tên LÊ VĂN THỨ.
*Con trai thứ chín tên LÊ VĂN HẢO.
Hiện nay, bảy chi đều sinh sống đa số chung khu vực thuộc hai Ấp Bàu Điều và Bàu Điều Thượng, xã Phước Thạnh, huyện Củ Chi, Thành phố HỒ CHÍ MINH.Trong Miếu Thờ Họ NGÔ (tọa lạc tại Ấp Bàu Điều, xã Phuớc Thạnh) có trồng một cây bồ-đề gốc Ấn-Độ (loại đuôi dài), có bảy nhánh cây phát triển tươi tốt, tượng trưng cho bảy chi trong họ tộc.
Hàng năm, con cháu có bốn dịp tập hợp về Miếu Thờ để kính lễ Ông Bà Cố Tổ:
-Ngày mùng 3 Tết. cúng Lễ Ra Binh.
-Ngày mùng 10/3 ÂL cúng Đáo Lệ 3 năm một lần (thực tế là năm cúng năm nghỉ).
-Ngày 26/6 ÂL cúng giỗ Ông Cố Tổ.
-Ngày 16/12 ÂL cúng giỗ Bà Cố Tổ, đồng thời cũng là Lễ Tảo Mộ Ông Bà luôn, vì từ tháng 3 năm Giáp Thân (2004), tất cả 6 ngôi mộ của Ông Bà đều được cải táng trong khuôn viên Miếu Thờ, tiện cho con cháu thăm viếng.
Ngoài ra, trong năm, có rất nhiều con cháu khi ở xa về, đều mang phẩm vật đến Miếu cúng Ông Bà Cố với lòng thành cầu nguyện được bình an mạnh khỏe.
Nhờ có Miếu Thờ, nên con cháu có điều kiện gắn bó, đoàn kết nhau thêm.
Từ năm 2004, thành lập chính thức Ban Cố Vấn và Ban Quý Tế Miếu Thờ Họ Ngô, cùng với việc trùng tu Miếu Thờ, làm cho khí thế sinh hoạt mạnh thêm lên và tinh thần gia tộc càng phát triển tốt đẹp.(xem phần Ghi Chú trong trang Web nầy)
*Sau đây là phần giới thiệu về LỊCH SỬ HÀNH CHÁNH VÙNG ĐẤT CỦ CHI NGÀY NAY.
LỊCH SỬ HÀNH CHÁNH VÙNG ĐẤT CỦ CHI
(Tổng hợp theo Đại Nam Nhất Thống Chí và một số tài liệu khác)

Kể từ khi Nguyễn Hữu Cảnh theo lệnh chúa Nguyễn Phúc Chu (Chúa Sãi) vào Nam làm Kinh Lược, lấy đất Nông Nại làm phủ Gia Định, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, lập xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, vào mùa Xuân năm Mậu Dần (1698) thì vùng đất Củ Chi cũng chính thức thuộc về Việt Nam.
Củ Chi lúc bấy giờ còn đầy rừng rậm với các loài thú dữ, cảnh vật hoang sơ. Mỗi xóm làng khoảng vài chục nóc gia, quần tụ trên những mảnh đất mới khai phá nằm lọt thỏm giữa những cánh rừng bạt ngàn. Cho đến cuối thế kỷ 18, nhà bác học Lê Quý Đôn viết về vùng đất Gia Định như sau:
“Đất Đồng Nai thuộc phủ Gia Định, từ các cửa biển lớn nhỏ như Cần Giờ, Soài rạp đi vào toàn là những cánh rừng hoang vu đầy cỏ rậm, mỗi cánh đồng có thể rộng hơn nghìn dặm”.
Thời điểm nầy, vùng đất Củ Chi thuộc Tổng Bình Dương, huyện Tân Bình, phủ Gia Định.
Đên năm Gia Long thứ 7 (1808), phủ Gia Định được đổi thành Gia Định Thành, Dinh Phiên Trấn được đổi thành Trấn Phiên An, huyện Tân Bình đượcnâng lên thành phủ Tân Bình, tổng Bình Dương được nâng lên thành huyện. Huyện Bình Dương được chia làm 2 tổng là Bình Trị và Dương Hoà, lấy hai chữ tên huyện cũ đặt tên đầu 2 tổng.
Sang đến triều Minh Mạng, dân số tăng lên rất nhiều, đất ruộng cũng được khai phá thêm, thôn ấp được thành lập thêm, nên địa bàn 2 tổng nói trên thuộc huyện Bình Dương được chia làm 6 tổng mới, được đặt tên theo cách thêm vào sau tên tổng cũ các chữ Thượng, Trung, Hạ để giữ được nguyên gốc. Do đó, 6 tổng mới mang tên : Bình Trị Thượng, Bình Trị Trung, Bình Trị Hạ ; Dương Hoà Thượng, Dương Hoà Trung, Dương Hoà Hạ.
Năm Thiệu Trị nguyên niên (1841) tách phần đất phía tây bắc huyện Bình Dương, gồm một số thôn thuộc 3 tổng Bình Trị Trung, Bình Trị Hạ, Dương Hoà Thượng để thành lập huyện mới, đặt tên là huyện Bình Long. Huyện Bình Long là địa bàn 2 huyện Hóc-Môn và Củ Chi ngày nay.
Theo Đại Nam Nhất Thống Chí (1820--Trịnh Hoài Đức) thì danh mục phân ranh hành chánh là:
Thành Gia Định, trấn Phiên An, phủ Tân Bình, có 4 huyện:
1/-Huyện Bình Dương, tổng Bình Trị, 76 xã thôn.
2/-Huyện Tân Long, tổng Dương Hoà,74 xã thôn.
3/-Huyện Phước Lộc.
4/-Huyện Thuận An.
*Tổng Bình Trị Hạ khá rộng, từ Phú Nhuận lên Hạnh Thông, An Nhơn, An Lộc, Bình Nhan, Bình Lý, Tân Mỹ, Thạnh Hoà, Thạnh Phú cho đến Tân Thạnh (Đông+Tây), tổng cộng có 22 thôn, 4 xã.
*Tổng Dương Hoà Trung có 1 xã, 20 thôn, bao gồm từ Tân Phú Trung lên Tân Thông, Mỹ Khánh lên một phần Trảng Bàng, qua Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây, Nhuận Đức, Trung Lập, Phú Hoà Đông.
Đến năm 1841, huyện Bình Dương tăng thiết thêm huyện Bình Long như đã nói trên. Đến thời Pháp cai trị (1862), có 5 tổng là Bình Thạnh Thượng, Bình Thạnh Trung, Bình Thạnh Hạ, Cầu An Hạ và Long Tuy Thượng.
Năm 1867 huyện Bình Long còn 4 tổng là : Long Tuy Thượng, Bình Thạnh Thượng, Bình Thạnh Trung và Bình Thạnh Hạ.
Năm 1872, huyện Bình Long còn 3 tổng là : Long Tuy Thượng, Bình Thạnh Trung và Bình Thạnh Hạ.
Năm 1900, tổng Long Tuy Thượng chia thêm 2 tổng Long Tuy Trung và Long Tuy Hạ.
Những năm đầu thế kỷ XX , tỉnh Gia Định được chia làm 4 quận là : Hóc Môn, Gò Vấp, Thủ Đức và Nhà Bè. Địa bàn huyện Củ Chi này nay thuộc quận Hóc Môn. Quận Hóc Môn có 5 tổng và 65 xã. Tổng Bình Thạnh Trung có 7 làng. Tổng Long Tuy Thượng có 6 làng.Tổng Long Tuy Hạ có 16 xã, tổng Long Tuy Trung có 18 xã đều nằm gọn trên địa bàn ngày nay của huyện Củ Chi. Còn tổng Long Tuy Thượng và tổng Bình Thạnh Trung chỉ có một số xã, thôn nay thuộc Củ Chi.
Cuối đời Pháp thuộc, chính quyền Pháp sáp nhập một số xã , thôn ít dân lại thành những xã mới rộng hơn, đông dân hơn. Vì thế, quận Hóc Môn vào năm 1944 chỉ còn 28 xã. Tổng Long Tuy Hạ còn 4 xã là : Thái Mỹ, Trung Lập, Phước Hiệp và Tân An Hội. Tổng Long Tuy Trung còn lại 4 xã là: Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây, Nhuận Đức, Phú Hoà Đông. Tám xã của hai tổng nói trên cộng thêm các xã Tân Phú Trung, Phước Vĩnh Ninh của Long Tuy Thượng; Tân Hoà, Tân Thạnh Đông của tổng Bình Thạnh Trung là thuộc địa bàn huyện Củ Chi ngày nay.
*Ngày 29-04-1957 , chính quyền Sài Gòn ban hành Nghị Định số 138-BNV-HC-NĐ qui định địa bàn các tổng Long Tuy Thượng, Long Tuy Trung, Long Tuy Hạ được tách khỏi tỉnh Gia Định, để đến ngày 30-8-1957, lập thành quận Củ Chi trực thuộc tỉnh Bình Dương. Từ đó đến nay, tên Củ Chi chính thức được công nhận là địa danh hành chánh cấp huyện.
*Đến năm 1963, chính quyền Sài Gòn chia quận Củ Chi thành hai quận : quận Củ Chi thuộc tỉnh Hậu Nghĩa và quận Phú Hoà thuộc tỉnh Bình Dương. Quận Củ Chi gồm các xã : Phước Hiệp, Phước Vĩnh Ninh, Tân An Hội, Tân Phú Trung, Thái Mỹ và Trung Lập. Quận Phú Hoà có các xã An Nhơn Tây, Bình Mỹ, Nhuận Đức, Phú Hoà Đông, Phú Mỹ Hưng, tân Hoà, Tân Thạnh Đông và Trung An. Năm 1973, thành lập thêm xã Tân Thông Hội.
*Sau ngày 30-4-1975, quận Củ Chi thuộc tỉnh Hậu Nghĩa và quận Phú Hoà của tỉnh Bình Dương được nhập chung lại thành Huyện Củ Chi, Thành Phố Hồ Chí Minh.
-Năm 1977, thành lập xã Phạm văn Cội.
-Quyết định số 70/HĐBT ngày 11-7-1983 của Hội Đồng Bộ Trưởng, chia xã Trung Lập thành 2 xã : Trung Lập Thượng và Trung Lập Hạ; chia xã Phước Hiệp thành 2 xã Phước Thạnh và Phước Hiệp; giải thể xã Phạm Văn Cội 2 và tách Ấp Phú Trung, Ấp Phú Bình khỏi xã Phú Mỹ Hưng; Ấp Xóm Chùa, Ấp Xóm Thuốc khỏi xã An Nhơn Tây để thành lập xã mới lấy tên là xã An Phú.
-Năm 1985, thành lập Thị Trấn Củ Chi theo Quyết Định số 25/HĐBT ngày 01-02-1985 của Hội Đồng Bộ Trưởng.
-Hiện nay, huyện Củ Chi có Thị Trấn Củ Chi và 20 xã là : Tân Phú Trung, Tân Thông Hội, Tân An Hội, Phước Hiệp, Phước Thạnh, Thái Mỹ, Trung Lập Thượng, Trung Lập Hạ, An Nhơn Tây, An Phú, Phú Mỹ Hưng, Nhuận Đức, Phạm Văn Cội, Phú Hoà Đông, Tân Thạnh Tây, Trung An, Hoà Phú, Bình Mỹ, Tân Thạnh Đông và Phước Vĩnh An.


Gia Phả NGÔ-LÊ (CỦ-CHI)
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc NGÔ-LÊ (CỦ-CHI).
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc NGÔ-LÊ (CỦ-CHI)
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.