- THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP
Thế Tông Hiếu Vữ Hoàng Đế húy là Nguyễn Phúc Khoát còn húy là Hiếu, con trưởng của đức Túc Tông Nguyễn Phúc Thụ và Hoàng Hậu Trường Thị Thư. Ngài sinh ngày 18 tháng 8 năm Giáp ngọ (26-9-1714).
Ban đầu ngài được phong làm Chưởng dinh dinh Tiền Thủy, tước Hiểu Chính Hầu, làm phủ đệ ở Cơ tiền dực (làng Dương Xuân).
Tháng 4 năm Mậu ngọ (1738), đức Túc Tông băng, quần thần vâng di mệnh, tôn ngài làm "Tiết Chế Thủy Bộ Chư Dinh Kiêm Tổng Nội Ngoại Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự Thái Bảo Hiểu Quận Cônf" ngài lấy hiệu là Từ Tế đạo nhân, lúc ngài 25 tuổi.
Sau khi lên ngôi, ngài cho khởi công xây phủ mới, ở bên tả phủ cũ. Năm Kỷ mùi (1739), hoàn tất cuộc dời đô, triều thần tôn ngài là "Thái Phó Quốc Công". Công cuộc kiến thiết mới đã làm cho đô thành Phú Xuân trở nên rộng rãi và hoa lệ. Khuôn viên phủ là ba lớp thành hình vuộng vây bọc, có bảy cửa ra vào. Một trăm năm mươi đại bác được đặt rải rác khắp thượng thành. Phố xa đông đúc, đường sá rộng rãi. Dưới sông ghe thuyền qua lại không ngớt. Miền Nam thanh bình an lạc, đất nước phú cường mở ra một kỷ nguyên mới.
Vào tháng 4 năm Giáp tý (1744), quần thần dân biểu xin ngài lên ngôi vương. Ban đầu ngài từ chối nhưng Trương Phúc Loan lấy lời lẽ hơn thiệt, nhắc lại việc đức Hiến Tông (Quốc Chúa), cho đức ấn truyền quốc và so sánh tình trạng rối ren ở miền Bắc thua kém cảnh thanh bình, hưng vượng ở miền Nam. Cuối cùng ngài chấp thuận. Ngày 12 tháng 4 năm đó, lễ đăng quang được tổ chức vô cùng trọng thể ở vương phủ và khắp cả đô thành. Súng thần công bắn rền trời, trên bộ, dưới sông giăng đèn kết hoa, cờ xí rực rỡ. Đạo ngự gồm kiệu vua, voi dàn hầu, ky binh va đoàn quan lại tùy tùng diễn hành khắp đô thành cho dân chúng chiêm ngưỡng rồi xuống thuyền rồn đưa thẳng về điện Trường Lạc (xây tại làng Dương Xuân, nằm ở thượng lưu sông Hương). Lễ đại xa ban hành khắp nước, các cuộc vui chơi kéo dài một tháng.
Sau đó nhiều cải cách được thi hành : phủ đổi thành điện, những gì trình lên vua gọi là tấu, Thân quân gọi là Võ lâm quân, Văn chức đổi là Hàn lâm viện. Về hành chính thì chia làm 6 bộ : Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình và Công. Phàm văn thư vẫn dùng niên hiệu vua Lê nhưng đối với các thuộc quốc thì xưng là Thiên vương. Y phục từ quan đến dân cũng thay đổi (1).
Ngài ra lệnh đúc quốc tỉ, dựng tông miếu và truy tôn tước hiệu các bậc Tiên vương. Ngài phong cho thân tộc làm Quận công, các Hoàng tử vẫn xưng là công tử, con trưởng xưng là Thái công tử. Trong cung lúc bấy giờ hiếm sinh con trai và hay chết yểu, nhiều người nghỉ là bị ông bà bắt nên phải kiêng cữ, giấu giếm. Con trai sinh ra được gọi bằng mụ, cháu trai thì gọi bằng chị (xem như con gái).
Bờ cõi thời bấy giờ đã mở mang rộng rãi, miền Nam 12 dinh:
1. Chính dinh (đổi thành Đô thành Phú Xuân), 2. Cựu dinh (Ái Tử), 3. Quảng Bình, 4. Lưu Đồn, 5. Bố Chính, 6. Quảng Nam, 7. Phú Yên, 8. Bình Khang, 9. Bình Thuận, 10. Trấn Biên, 11. Phiên Trấn, 12. Long Hồ.
Tình hình các dinh mới thành lập, đôi khi không yên ổn như cuộc nổi loạn của người Man ở Thuận Thành vào năm Bính dần (1746) hay cuộc nổi loạn của khách buôn người Hoa ở dinh Trấn Biên làm quan quân phải đi đánh dẹp.
Về đối ngoại, cuộc tranh giành ngôi vua đi đưa nước Chân Lạp vào cảnh nội chiến kéo dài từ năm Mậu ngọ (1738) đến năm Đinh sửu (1757). Theo lời yêu của các vị vua Chân Lạp, ngài phải cho quan quân can thiệp để tình ình nước này được yên ổn. Để đền đáp công ơn, các vua Chân Lạp đã hiến nhiều vùng đất cho ngài : vua Nặc Nguyên dâng hai vùng Tầm Đôn (Tân An) và Xuy Lạp (Gò Công),vua Nặc Thuận hiến hai vùng Trà Vang (Trà Vinh, Bến Tre) và Ba Thắc (Sóc Trăng, Bạc Liêu), vua Nặc Tôn hiến các vùng Tầm Phong Long (gồm vùng đất Thất Sonn chạy dọc xuống Sa Đéc) và sau đó là các vùng Hương Úc, Cần Vọt, Chân Sum, Sài Mạt và Linh Quỳnh (Kiên Giang, Long Xuyên). Như vậy đến Năm Đinh sửu (1757) ngài đã mở rộng lãnh thổ của miền Nam như hiện nay.
Năm Canh thìn (1760), Thế tử Hạo mất, gnài rất thương tiếc. Thấy Hoàng tử thứ hai Nguyễn Phúc Côn khôn ngoan sáng suốt và quả quyết, ngài định lập làm Thế tử. Ngài giao Hoàng tử cho Ý Đức Hầu Trương Văn Hạnh và Thị giảng Nguyễn Cao Kỷ chăm lo dạy dỗ.
Năm Giáp thân (1764) Hoàng tử Lê Duy Mật kêu gọi ngài đem quân ra Bắc diệt họ Trịnh để phò Lê nhưng ngài không muốn gây chiến tranh với họ Trịnh.
Trong những năm về sau, mãi sống trong cảnh thanh bình, xa hoa ngài đâm ra say mê tửu sắc, không thiết tha việc nước, xa rời nhiệm vụ của bậc đế vương. Thêm vào đó để dễ dàng trong việc tiếm quyền Trương Phúc Loan đã khuyến dụ ngài đi vào con đường nữ sắc. Một cung phí rất được ngài sủng ái là Công Nữ Nguyễn Phúc Ngọc Cầu, con của Dận Quốc công Nguyễn Phúc Điền. Đây chính là mầm mống gây cảnh điêu tàn của triều đại sau này.
Ngày 20 tháng 5 năm Ất dậu (7-7-1765) ngài băng, ở ngôi 27 năm, thọ 52 tuổi.
* * *
Đức Thế Tông Hiếu Vũ Hoàng Đế là vị Chúa Nguyễn thứ tám ở miền Nam.
Ngài đã đóng góp công to lớn trong cuộc Nam tiến của dân tộc Việt để đất nước chúng ta có một lãnh thổ rộng lớn như ngày nay.
Ngài thuộc đời thứ 9 họ Nguyễn Phúc, khai sáng ra hệ IX hiện nay có 7 phòng:
1. Phòng ba tức là phòng Chưởng dinh Nguyễn Phúc Mão
2. Phòng bốn tức là phòng Thành Quận công Nguyễn Phúc Cường
3. Phòng sáu tức là phòng Thiếu phó Nguyễn Phúc Chất
4. Phòng bảy tức là phòng Chưởng dinh Quận công Nguyễn Phúc Kính
5. Phòng mười tức là phòng Cai cơ Nguyễn Phúc An
6. Phòng mười bảy tức là phòng Thiếu Phó Quận công Nguyễn Phúc Xuân
7. Phòng mười tám tức là phòng Phức Long Nguyễn Phúc Thăng
- LĂNG, MIẾU THỜ VÀ CÁC TƯỚC HIỆU ĐƯỢC TRUY TÔN
Ngài mất, lăng táng tại làng La Khê (Hương Trà, Thừa Thiên). Đến đời vua Gia Long, lăng được đặc tên là Trường Thái, ngài được thờ tại Thái Miếu, án thứ tư bên tả. Thế tử lên ngôi, dâng thụy hiệu là : " Kiền Cương Uy Đoán Thần Nghị Thánh Du Nhân Từ Duệ Trí Hiếu Vũ Vương". Năm Bính dần (1806), Vua Gia Long truy tôn : "Kiền Cương Uy Đoán thần Nghị Thánh Du Nhân Từ Duệ Trí Hiếu Vũ Hoàng Đế." Miếu hiệu là Thế Tông. |