(Trích dẫn bản viết tay của ông Trần Trọng Dật 2-1986)
ĐẶC ĐIỂM LAI VÀ LỊCH HỌ TA
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Họ ta nguồn gốc là họ Trần, thỉ tổ là cụ Trần Như (蔯 如 )quê ở huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa, vào đây sinh sống từ thế kỷ XVII (Thời Lê Trung Hưng).
Từ trước tới nay các thế hệ sinh trưởng rất đông tại thôn Trung Lễ, xã Cổ Ngư, tổng Văn Lâm, huyện La Sơn, phủ Đức Thọ, Tỉnh Hà Tĩnh (Nay là xã Trung Lễ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh).
Quá trình phát triển, do đặc điểm và bối cảnh lịch sữ của từng thời kỳ chi phối mà họ ta đã có chi nhánh (hoặc phái) đổi tên là Lê hay Nguyễn như các trường hợp sau đây:
* Đời thứ 6 có ông Trần Đôn Cung (陳敦恭) là con đầu của ông Trần Đạm. Ông Cung lấy 2 vợ. Vợ chính thất là người họ Đào sinh 2 con trai là Trần Khắc Vọng và Trần Khắc Trịnh. Vợ thứ 2 là bà Lê Thị Thiều con gái út của ông Lê Gia Tân (Tục gọi là Can hầu Lang) sinh được 1 côn trai thì ông Cung qua đời, bà Thiều bồng con trai thơ ấu này về bên ngoại để nương nhờ. Mẹ con bà Thiều được cha đẻ là ông Lê Ga Tân nuôi dưỡng, đúa bé được đặt tên là Lê Công Tuần黎公揗. Từ đấy về sau con cháu ông Lê Công Tuần tiếp tục đặt tên họ là Lê . Tộc trưởng của phái (con bà chính thất của ông Cung) vẫn là họ Trần.
* Đời thứ 7 có ông Trần Chính Nghị (蔯正誼) là con đầu của ông Trần Đôn Phác (蔯敦撲). (Ông Phác lại là con trai thứ 2 của ông Trần Đạm, em ruột ông Cung). Sau khi thi đậu Hương Cống, ông Nghị được triều đình bổ đi làm quan tri huyện Từ Liêm (Hà Nội). Ông lấy người vợ họ Nguyễn sinh 2 con trai đặt tên là Nguyễn Dự (阮 預) và Nguyễn Điển (阮 淟). Con cháu đời sau của 2 ông Dự và Điển đổi tên họ trở lại là Trần. Như vậy Phái này có cả Trần + Lê + Nguyễn. Tộc trưởng của phái là con bà chính thất ông Cung vẫn là họ Trần. Đến đời thứ 10 ông Trần Tiếu tộc trưởng phái này không có con trai, ông bèn xin một bé trai ở làng Ba Linh xã Thanh Lạng (nay là xã Đức Thanh) làm con nuôi để lập tự, đặt tên là Trần Trọng Đạt. Từ đấy phái này chi làm 2 phái: 1-Phái Lê Công (黎公) phụng thờ ông Trần Đôn Cung; 2-Phái thứ 2 phụng thờ ông Trần Đôn Phác.
* Đời thứ 10 có ông Trần Bảy Đản (蔯 七亶) con thứ 7 của ông Trần Xuân Hòe (thuộc chi Giáp Tứ phái cụ Trần Huy Quả). Do hoàn cảnh loạn lạc đói khổ bởi chế độ bóc lột hà khắc của thực dân Pháp và triều đình phong kiến nhà Nguyễn, cả 4 người con trai ông Trần Xuân Hòe là các ông Trần Dái Đản, Trần Sáu Đản, Trần Bảy Đản và Trần Tám Đản đều phải tha phương cầu thực (đi ăn xin). Ông Trần Dái Đản có sự đỡ đầu của gia đình bên ngoại, hiện nay con cháu khá đông trong họ ta. Ông Sáu Đản và ông Tám Đản đi ăn xin thất tích. (Nghe nói ông Tám Đản có gia đình ở xã Sơn Phố-Hương Sơn, không có con trai, gia đình công giáo). Riêng ông Trần Bảy Đản khi đi ăn xin được cố đạo (Đạo gia tô-zérou) đưa về nhà chung Nghi Yên (Đức Yên-Đức Thọ) rồi trở thành giáo dân. Ông Bẩy Đản lấy vợ là Trần ThịTam- người cùng cảnh ngộ, cũng con chiên giáo hữu, sinh được 10 người con trai gái và đặt tên cho con là họ Nguyễn. Hiện nay con cháu tiểu phái họ Nguyễn này khá đông ở tại xã Đức Yên –Đức Thọ- Nghệ Tĩnh.
Từ cách mạng tháng 8/1945 thành công đến nay, con cháu tiểu phái họ Nguyễn này đã làm tốt nghĩa vụ kính chúa yêu nước, tích cực tham gia hoạt động trong các tổ chức Đảng cộng sản, chính quyền, đoàn thể cánh mạng. Có một số người tốt nghiệp bằng trung cao cấp phục vụ tại các ngành kinh tế sự nghiệp, cấp ủy Đảng trực thuộc Huyện,Tỉnh và trung ương.
Từ nữa năm 1938 lại nay, tiểu phái Nguyễn công giáo này đã tìm về quê cũ (–Trung Lễ) thăm viếng , cất bốc mồ mả tổ tiên. Hằng năm đến rằm tháng 7 âm lịch và tết Nguyên Đán con cháu tiểu phái Nguyễn về thắp hương tại nhà thờ họ Trần Lê Đại tông, duy trì quan hệ mật thiết thân thích họ hàng.
Như vậy, họ Trần Lê Đại Tông từ đời thứ 7 đến đời thứ 10 có thêm 1 phái Lê và 2 phái Nguyễn. Hiện nay chỉ còn 1 phái Lê, 1 tiểu phái Nguyễn, còn lại là họ Trần.
Thực tiễn, họ ta tuy có thêm phái Lê, phái Nguyễn nhưng “ Cành kia chính ở cội này mà ra”.
………………………………………………………………………………………………………..
(Trích dẫn lời giới thiệu của ban cán sự họ đại tôn 2001)
LỜI GIỚI THIỆU
CỦA BAN CÁN SỰ HỌ ĐẠI TÔN
***************
Quyển thế phổ đầu tiên của họ TRẦN LÊ ĐẠI TÔN được biên soạn bằng chữ Quốc ngữ từ năm 1965 do cụ Lê Thước với sự cộng tác của cụ Trần Thiện Kế (ông Bản Ngụ) dịch từ các bản chữ Hán trước đây của các cụ tiền bối để lại. Nó đã được thông qua một số cụ lão thành trong Họ như : cụ Trần Khương (tức cố Đoàn Mân)- Lúc bấy cụ giờ là Thủ chi Họ; cụ Trần Hữu Thưởng (tức ông Bộ Chương), ...vv. và được hoàn thành ngày 18 tháng 07 năm 1970 ( tức ngày 08 tháng 3 năm Canh Tuất). Ông Lê Trọng Huyền đánh máy và gửi về cho Họ một bản, nay còn lưu giữ tại Nhà thờ.
Đến năm 1978, Ban cán sự gồm các cụ: Trần Bảo, Trần Cảnh Kiều, Trần Uông, Trần Huyền và ông Trần Lê Dật- làm chủ bút, đã biên soạn quyển thứ hai từ đời 1 đến đời thứ 13 và một phần đời thứ 14, giới thiệu cho các con cháu trong Họ vào ngày đầu xuân năm Canh Thân (1980).
Bản chính do ông Trần Lê Dật quản lý từ bấy giờ (1980) đến năm 1995 thì bị thất lạc. Nay chúng tôi sưu tầm các bản thảo do ông Trần Lê Dật ghi chép, quyển thế phổ do cụ Lê Thước biên soạn, sổ gia phả của các phái để sao chép lại quyển thé phổ này của họ Đại Tôn, chủ yếu là in ấn lại các bản thảo của ông Trần Lê Dật.
Nghiên cứu kỹ 2 cuốn thế phổ do cụ Lê Thước biên soạn và ông Trần Lê Dật lược dịch ghi chép, chúng tôi chĩnh lý lại vài điểm sau đây thuộc GIÁP NHỊ và CHI ĐINH thế hệ đời thứ 7 đến đời thứ 13:
GIÁP NHỊ: Trong cuốn thế phổ do ông Trần Lê Dật ghi chép thế phổ GIÁP NHỊ: Các con cháu đã được ghi lên 2 đời. (Đời thứ 7 Ông Dật ghi là đời thứ 9 ..vv).Nay chúng tôi chép lại đúng theo quyển thế phổ do cụ Lê Thước biên soạn.
CHI ĐINH: Trong cuốn thế phổ do ông Trần Lê Dật ghi chép thế phổ CHI ĐINH: Các con cháu đã được ghi lên 1 đời. (Đời thứ 7 Ông Dật ghi là đời thứ 8 ..vv). Nay chúng tôi chép lại đúng theo cụ Lê Thước biên soạn.
Tuy nhiên quyển thế phổ này chủ yếu mới được ghi chép được các thế hệ con cháu sinh trưởng trong Họ theo từng phái khai báo, còn một số yếu tố khác phải sưu tầm bổ sung thêm như: Năm sinh, Nghề nghiệp, Chức vụ công tác phục vụ, cũng như còn số con cháu chưa báo xin vào Họ, nhất là các hộ ở xa quê đời thứ 13 và 14 còn thiếu nhiều.
Đây là việc quan trọng mà chúng ta cần phải quan tâm để quyển thế phổ Họ TRẦN LÊ ĐẠI TÔN ngày càng được ghi chép đầy đủ lưu giữ lâu dài cho thế hệ mai sau làm căn cứ tiếp tục công việc NHÂN NGHĨA ĐỐI VỚI TỔ TIÊN.
Ngày mồng một tết Tân Tỵ (2001)
Thường trực ban cán sự Họ Đại Tôn:
Trần Lê Đường - Trần Lê Tính
|