GIA

PHẢ

TỘC

TRẦN

ĐẠI
TÔN
(陳藜大宗
)
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
TÀI SẢN, HƯƠNG HỎA, GHI CHÚ
Tài sản hương hỏa
(Trích dẫn bản viết tay "LỜI MỞ ĐẦU" của ông Trần Trọng Dật)
LỜI MỞ ĐẦU

Như một số bản Hán văn do các cụ tiền bối đã ghi trên lời tựa của thế phổ và trong vấn đề tổ tông công đức rằng:
木 体 水 厡 千 古 念
兲 经 地 義 万 年 存
Mộc bản thủy nguyên thiên cổ niệm
Thiên kinh địa nghĩa vạn niên tồn
Hoặc trong mấy vần thơ:
Loài vật sơ sinh được mẹ nuôi,
Lớn khôn chúng biết có mình thôi.
Con người nghĩa nặng tình chung thủy,
Nguồn nước - gốc cây - người giống nòi.

Với nhận thức ấy, đời con cháu họ Trần Lê đại tông chúng ta đã và đang dày công vun đắp mối tình cảm của mỗi gia đình, mỗi cánh họ ... ngày càng đoàn kết thắm thiết và vững mạnh.
Sự đòi hỏi của con cháu hậu sinh muốn hiểu biết nguồn gốc và truyền thống tốt đẹp của tổ tiên, đặng nghiên cứu, chọn lọc, phát huy trong sự nghiệp xây dựng bảo vệ tổ quốc và giống nòi.
Bởi vậy việc sưu tầm ghi chép thế phổ, vẽ tông đồ của toàn họ đại tông, cũng như riêng của từng phái bằng chữ quốc ngữ nhằm phục vụ lợi ích cấp thiết ấy.
*
Xúc tiến công việc này họ ta đã đạt được kết quả đáng quý:
- Đầu năm 1927, họ ta họp đã thống nhất được quyết nghị ba việc cơ bản sau đây:
1/-Thống nhất hợp tự, tập trung nhà thờ riêng của các phái lại để xây dựng một nhà thờ chung cho toàn họ gọi là “ Đại tôn từ đường” (大 宗 祀 堂 ) gồm ba gian thượng đường, ba gian hạ đường và hai nhà cầu tả hữu bằng gỗ mít, giổi, lợp mái ngói, xây tường, sân gạch, có đủ các loại tự khí phương tiện hoàn chỉnh.
2/- Đặt tên họ ta là họ Trần Lê Đại Tông (陳藜大宗 )
3/-Thiết lập tôn đồ thế phổ và định ra một số quy ước chung cho toàn họ.

Tiếp đó sự phân công sưu tầm ghi chép tôn đồ thế phổ từ đời thứ nhất (cụ Trần Như) đến đời thứ 12 bằng chữ Hán. Tổ chức sổ trường sinh để ghi chép số con cháu mới sinh có xin vào Họ. (Trừ số con cháu lập nghiệp ở xa không khai báo xin vào Họ thì họ không biết ghi tên được). Toàn bộ sổ sách do ban trợ sự quản lý và ghi chép.
Sau những biến cố quan trọng mà đất nước ta đã trãi qua như: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954); Những sai lầm trong cải cách ruộng đất (1955); Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-1975). Một số lớn giấy tờ, sổ sách bị phá hủy hoặc bị mục nát. Chỉ còn một số bản thế phổ chữ Hán trong số người cao tuổi ở các chi phái được kiên trì cất giữ cẩn thận. Nhờ vậy lần này (1978~1986) đã tìm kiếm tập trung được khá đầy đủ tài liệu phục vụ cho việc biên soạn Thế phổ, vẽ tôn đồ toàn họ và các chi phái được chính xác hơn.
Năm 1965-1969, cụ Giải nguyên, giáo sư, cán bộ chuyên viên hưu trí- Lê Thước (黎爍 ) đời thứ 11 thuộc chi Bính Nhất, có soạn thảo một bản thế phổ họ Đại Tông (viết tại nhà số 88B-phố Huế -Hà nội ). và ông Lê Trọng Huyến là em ruột cụ Lê Thước đánh máy bằng chữ Quốc ngữ.
Rất tiếc vì lúc này, trong hoàn cảnh bom đạn chiến tranh ác liệt của giạc Mỹ, việc cụ Thước liên lạc về quê nhà gặp khó khăn trở ngại nên chỉ dựa vào bản sơ thảo chữ Hán của ông Giáo Ngụ (tức là Trần Thiện Kế - đời thứ 12 chi Giáp Tứ ) - Là người bị phá sản do bị quy sai địa chủ trong cải cách ruộng đất, các bản tài liệu lưu trữ của ông Giáo Ngụ cũng bị phá hủy hầu như hết sạch. Do đó việc cung cấp tài liệu cho cụ Thước bị hạn chế, không đáp ứng đầy đủ nguyện vọng cao cả và tấm lòng thành kính tổ tông của cụ. (Trích theo ý xác nhận của tộc trưởng và toàn ban biên tập thế phổ tại cuộc họp kiểm tra các tài liệu thu thập trước khi bàn giao cho người dịch và biên soạn thế phổ lần này).(1)
Đầu xuân 1978, khởi điểm công tác biên soạn này do tự phát của tiểu phái cụ Trần Văn Bình (Thuộc chi Giáp Tứ phái thế tổ Trần Huy Quả) đã dịch thế phổ, vẽ tông đồ tiểu phái bằng chữ Quốc ngữ đưa ra trình Họ tại cuộc họp tôn trưởng nhân ngày rằm tháng giêng 1978.
Ngay tại tại cuộc họp này, họ ta đã hoàn toàn nhất trí cử ra một ban sưu tầm biên soạn lại thế phổ cũ, viết và vẽ tôn đồ chung cho toàn họ Đại Tông, cũng như cho riêng mỗi phái bằng chữ Quốc ngữ nhằm giúp cho con cháu dễ xem, dễ hiểu và đời đời tiếp tục bổ sung.
..........................................................................................................
Chú thích:
(1)-Do hoàn cảnh nói trên, bản thế phổ đánh máy này sót nhiều vị thế tổ, sai tên húy, nhất là đảo lộn đời trên xuống đời dưới như chi Giáp Nhị và chi Đinh Nhất , Nhị.
..........................................................................................................

Ban sưu tầm biên soạn Thế phổ gồm có:
1- Trần Ngọc Uông : - Trưởng ban
2- Trần Lê Dzật : - Ban viên chủ bút sưu tầm tài liệu, dịch thuật từ Hán văn sang Quốc ngữ, biên soạn và vẽ tôn đồ của toàn Họ và 8 Phái.
3- Trần Nguyễn : - Ban viên vận động và đôn đốc.
Mỗi phái có một ban viên.

Tài liệu lần này đã sưu tầm được :

Ông Dzật tìm mượn được 6 bản chữ Hán:
1 bản do cụ Trần Xuân Tương đời thứ 10 chi Giáp Tứ viết
1 bản do cụ Trần Trọng Ôn đời thứ 11 chi Giáp Tứ viết
1 bản do cụ Trần Trương đời thứ 11 chi Giáp Tứ viết
1 bản do cụ Trần Diệm đời thứ 11 chi Giáp Tứ viết
1 bản do cụ Trần Tuấn, Trần Khương đời thứ 12 chi Giáp Tam viết
1 bản do cụ Trần Bồng đời thứ 13 chi Đinh Nhị viết
Ông Uông tìm được 2 bản :
1 bản do cụ Lê Thước đời thứ 11 chi Bính Nhất viết tại Hà nội, đánh máy bằng chữ Quốc ngữ.
1 bản Hán văn do ông Trần Trọng Đạt chuyển đến.

Việc ghi chép thế phổ lần này đã làm được :

Thế phổ: - Toàn họ Đại Tông 1 bản bằng chữ Quốc ngữ. Tên húy các vị thế tổ và các con cháu đời sau đều có ghi cả chữ Hán để lưu niệm trọn vẹn ý định của tiền nhân đặt tên theo bộ chữ của từng cánh họ hoặc từng gia đình, ngoài ra có những chổ cần thiết để chứng minh di tích, tích điển cũng có ghi cả chữ Hán.
Vận động mỗi Phái tự sao chép một bản thế phổ riêng cho mình.
1 bản do cụ Trần Xuân Tương đời thứ 10 chi Giáp Tứ viết
Tông đồ: - Toàn họ Đại Tông chung 1 bản ghi rõ hệ thống từ đời thứ nhất đến đời thứ 7 .
-Các phái: có 8 bản riêng của 8 phái. Có 2 tiểu phái đã được vẽ tông đồ trên vãi.

Trong 2 ngày mồng 1 và mồng 2 tết Nguyên Đán năm Canh Thân (1980), lần đầu tiên họ ta được trưng bày đầy đủ toàn bộ các bản tôn đồ (Đại tôn và 8 phái), thế phổ tại nhà thờ cho con cháu khắp các miền về xem và nghe thuyết minh cụ thể chi tiết lai lịch, hệ thống huyết thống toàn họ.
Từ đấy về sau việc giới thiệu tôn đồ thế phổ được duy trì thường xuyên tại các chi phái, tiểu phái vào các ngày sinh hoạt kỵ lạp, rằm tháng giêng, rằm tháng 7, giổ tổ đầu dòng của phái.
Nhờ có nhận thức ấy, con cháu trong dòng họ đêù phấn khởi sẵn sàng đóng góp công của để tu bổ xây dựng lại nhà thờ như mua gỗ, gạch ngói, xây tường, sửa cnhà thờ, đóng bàn ghế, trồng cây, dẫy cỏ, tu bổ sân vườn nhà thờ đẹp đẽ hơn. Số khá đông con cháu gái xuất giá lâu ngày cũng xung phong đóng góp xây dựng từ đường tổ tiên- Như bà Trần Thị Mai Quế, Trần Thị Nguyệt. Đại Tôn từ đường ở gần đường số 8, trước đây là điểm bị giặc Mỹ tập trung đánh phá hủy diệt ác liệt, cỏ cây u tùm hoang vắng thì nay đã được phục hồi sng trang tươi đẹp hơn. Cụ Trần Bảo vừa là tộc trưởng (chi Giáp Nhất) vừa là thủ chi họ Đại Tôn, tuy tuổi đời đã trên 80 xuân vẫn hăng hái gương mẫu trong việc đôn đốc vận động con cháu sẵn sàng đóng góp công sức vào việc duy trì sinh hoạt, xây dựng Từ đường.
Cũng từ đây, tất cả các chi phái đều phục hồi sinh hoạt, tổ chức các buổi họp mặt vui vẽ vào các ngày húy tổ, tết cổ truyền. Mối quan hệ gắn bó trong thân thuộc huyết thống ngày thêm thắm thiết đầm ấm, thăm viếng nhau khi vui buồn, giúp đỡ nhau khi khó khăn nghèo túng.
Qua việc nghiên cứu sưu tầm, biên soạn Tôn đồ, Thế phổ tình cảm nồng thắm, sâu nặng được nhen nhóm lên và lắng đọng trong tiềm thức của mỗi người con cháu- tự đặt ra cho mình-phải suy nghĩ gì đây ?, làm gì đây ?để xứng đáng với tổ tông, đất nước giống nòi.
Một điều đáng quý là khi nhìn thấy các đời trước có nhiều vị thế tổ đạt chức tước võ sỹ và khoa bảng lừng danh. Thế hệ sau có hàng ngàn con em là kỹ sư , bác sỹ, tiến sỹ trong và ngoài nước, nhiều chiến sỹ thi đua liên tục xuất hiện hàng năm, có cả anh hùng lao động (như Trần Văn Giao-Chi Đinh Nhất), nhiều người đạt cấp úy , cấp tá, chánh phó trưởng phòng, trương phó ty sở, cấp ủy Đảng chính quyền cấp huyện đến các ngành kinh tế sự nghiệp trực thuộc trung ương, Hàng trăm thương binh liệt sỹ kiên cường dũng cảm quyết tử cho tổ quốc quyết sinh .
Vậy là: Trứng rồng nở ra rồng
Hổ phụ sinh hổ tử
Còn gì sung sướng cho bằng khi được làm người dân của một đất nước Dân chủ, Độc lập, thống nhất trọn vẹn. Tự hào thay khi nhìn thấy trong họ hàng mình, từ thế hệ này qua thế hệ khác luôn xuất hiện nhiều người con cháu làm nên sự nghiệp, cống hiến nhiều công sức, xương máu cho nước cho dân.
Mới hay:
塘 仁 戈 吏 閍
Gia Phả TRẦN LÊ ĐẠI TÔN (陳藜大宗 )
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc TRẦN LÊ ĐẠI TÔN (陳藜大宗 ).
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc TRẦN LÊ ĐẠI TÔN (陳藜大宗 )
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.