GIA

PHẢ

TỘC

Họ

Đột
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
VIẾT VỀ THUỶ TỔ CỦA DÒNG HỌ
II. Quá trình phát triển dòng họ Lê Đột:
1- Nhánh Lê Luyến ở Phong Mỹ
Thủa ban đầu dòng họ Lê Đột có hai đến ba chi, quây quần bên nhau ở khu Ngõ Thượng, thôn Phong Mỹ (đó là gò đất cao nhất làng có độ cao so với mặt biển là 10m, không bị ngập lụt do sông Cầu Chày gây ra hằng năm).
Sau này dòng họ phát triển thành năm chi ở thôn Phong Mỹ, gồm các chi: Lê Hữu, Lê Bá, Lê Đình, Lê Văn, Lê Viết và một chi “họ Đồng chiêm” ở Đồng Văn (Đông Sơn Thanh Hóa). Con cháu 5 chi ở Phong Mỹ di chuyển dần từ đất đầu làng đến khu đất giữa làng và cuối làng.
Con cháu dòng họ Lê Đột ở cố định làm ruộng tại thôn Phong Mỹ. Chỉ có một số ít rời khỏi làng đi nơi khác (như chi Lê Viết có người lập nghiệp ở Đông Sơn, Thanh Hóa, chi Lê Đình có người đi lập nghiệp ở Hà Nội)
Chi Lê Đình, Lê Bá thường có nhiều con cháu học hành đỗ đạt cao, một số người làm quan thời Trần, thời hậu Lê.
Chi Lê Hữu, Lê Văn, Lê Viết thường có con cháu tham gia các chức sắc địa phương.
2- Nhánh Lê Hoàn
Nhánh này lập nên nhà Tiền Lê kéo dài 29 năm (980-1009). Nhà vua Lê Hoàn có 11 hoàng tử và một con nuôi đều được phong vương trấn trị ở Phù Đái (Hải Phòng), Phong Châu (Phú Thọ), Phù Lan – Đằng Châu – Mạc Liên (Hưng Yên), Ngũ huyện gia – Cổ Lãm (Bắc Ninh), Đỗ Động (Hà Tây cũ), Vũ Lũng (Thanh Hóa), Diễn Châu (Nghệ An). Do tranh dành quyền lực nội bộ, để tránh bị hại nhiều hoàng tử và gia đình bỏ trốn chạy không để lại dấu vết. Hiện nay chỉ mới sâu chuỗi được Lê Tần (xuất hiện đời Nhà Trần) và nhánh Lê Long Việt gồm các chi: Lê Bá Anh, Lê Danh. Lê Bá Em, Lê Đắc (và 2 chi thất truyền) cư ngụ tại thôn Phương La Đông (Xá Đông) xã Tam Giang huyện Yên Phong tỉnh Bắc Ninh (5).
3- Nhánh Lê Lợi
Nhánh này lập nên nhà Hậu Lê kéo dài 356 năm (từ 1428 đến 1788). Từ 3 chi ở Lam Sơn (Thọ Xuân Thanh Hóa). Cuối thời Hậu Lê phát triển liên tiếp 30 đời (143 gia đình) phân bổ từ ngoài Bắc vào đến miền Trung (Quảng Nam) (6).
Ngày nay (thế kỷ 20 và 21) con cháu hậu duệ nhà Lê Đột định cư trên nhiều tỉnh kéo dài từ ngoài Bắc đến trong Nam.
Nhiều con cháu họ Lê Đột đã trở thành các chiến sỹ, lãnh tụ cách mạng, các tướng lĩnh quân đội, các nhà khoa học, kỹ thuật, các nhà hoạt động chính trị - xã hội, các nhà nghiên cứu, các nhà văn, nhà thơ...có danh tiếng, các doanh nhân thành đạt.
III. Quan hệ phả hệ giữa cụ Tổ Lê Đột với nhà vua Lê Hoàn và Lê Lợi.
1- Quan hệ phả hệ giữa cụ Tổ Lê Đột và nhà vua Lê Hoàn
Quê hương nhà vua Lê Hoàn, sử sách và truyền thuyết có nhiều bất đồng: Đại Việt sử ký toàn thư ghi quê ở Ái Châu (nhưng không ghi cụ thể làng xã), Việt sử lược thi ghi ở Trường Châu-Ninh Bình, Đại Việt sử ký –Tiền biên thì ghi ở Bảo Thái-Hà Nam (7).
Năm 1981, nhân kỷ niệm 1000 năm thắng quân Tống xâm lược của nhà vua Lê Hoàn, nhà nước đã tổ chức hai hội nghị khoa học (tại Thanh Hóa và Hà Nội). Tại Hội nghị đã có những dữ liệu cơ sở xác định: Lê Hoàn sinh ngày 15 tháng 7 năm Tân Sửu (941) tại làng Trung Lập huyện Thụy Nguyên, Phủ Thiệu Thiên (nay là xã Xuân Lập , huyện Thọ Xuân). Cha của Lê Hoàn là Lê Mịch, mẹ là Đặng Thị, là con nuôi ông Lê Đột (ở thôn Phong Mỹ, Xuân Tân, Thọ Xuân) (2).
Đến nay một số nhà viết sử thường ghi: Lê Hoàn là người Xuân Lập, Thọ Xuân, Thanh Hóa, quê gốc ở ở Thanh Liêm-Hà Nam, cha mẹ chết sớm được viên quan sát họ Lê nuôi (7).
Xuất thân của nhà vua Lê Hoàn có đến 4 tư liệu khác nhau:
a- Theo truyền thuyết. Mẹ vua Lê Hoàn một đêm nằm ngủ thấy thần nhân tặng một bông hoa sen, từ đó bà có thai (đền thờ nhà vua ở Trung Lập có câu đối “Liên hoa kết thực vương đồ triệu” là dựa vào truyền thuyết nêu trên) (2).
b- Vua Lê Hoàn là con của bà Đặng Thị, bố là Lê Mịch (chữ Mịch gồm 2 chữ bất, kiến ghép thành, có nghĩa là không nhìn thấy được) (2).
c- Gia phả chi Lê Văn ghi Lê Hoàn con ông anh, mất sớm (không ghi họ tên) được ông chú (Lê Quan Sát) nhận làm con nuôi. Gia phả Lê Đình thì ghi: Cha mẹ vua lúc sinh thời rất nghèo (tối bần cùng), sau được họ Lê Đột nhận làm con nuôi.
d- Ông Lê Túc (hậu duệ vua Lê Lợi) cư trú tại Hà Nội, nhân dịp đến thăm đền vua Lê (ở Trung Lập) và khu lăng mộ của cụ Lê Đột (ở Phong Mỹ) đã biếu họ Lê Đột một tài liệu ghi khá chi tiết quan hệ phả hệ từ Lê Đột đến Lê Hoàn. Quan hệ phả hệ như sau:
Lê Đột (có vợ là Từ Tôn phu nhân) sinh ra Lê Lộ (ngày giỗ là mùng 10/11) có vợ là Nguyễn Thị Huyền (ngày giỗ 15/11, mộ táng ở Ninh Thái - Thanh Liêm – Hà Nam). Lê Lộ sinh ra hai con trai: Con trưởng là Lê Thái Vương có vợ là Đặng Thị Tôn sinh ra Lê Hoàn. Con thứ là Lê Luyến. Lê Hoàn 6 tuổi được ông chú là Lê Luyến (Lê Quan Sát) nhận làm con nuôi.
Tài liệu phả hệ Lê đại tộc – Kinh Triệu Quận cũng có nét tương tự, từ Lê Đột đến Lê Hoàn (đã trình bày ở phần trên).
Tài liệu của Lê Túc rất trùng hợp với gia phả của chi Lê Văn, Lê Đình và di tích về Mả lớn (3)
Các tài liệu trên đã khẳng định vua Lê Hoàn là hậu duệ của dòng họ Lê Đột (chứ không phải chỉ là con nuôi của dòng họ Lê Đột).
Các tài liệu trước đây của họ Lê (thực ra đã được tu chỉnh lại ở đời sau) không ghi rõ Lê Hoàn là hậu duệ của dòng Lê Đột, có lẽ vì nhà vua muốn vậy (theo truyền thuyết). Phần nữa họ Lê Đột sợ gây phiền nhiễu ở thời Lý và đặc biệt sợ họa “chu di tam tộc” dưới thời nhà Hồ.
Vua Lê Hoàn có 11 người con trai và 1 người con nuôi đều được phong vương.
Hậu duệ của nhà vua Lê Hoàn suốt 200 năm dưới triều Lý không thấy có sử liệu ghi chép. Mãi đến thời nhà Trần mới thấy một số tư liệu nói đến hậu duệ của dòng họ Lê Đột:
Ông Lê Khâm dòng dõi Lê Hoàn có con là Lê Tần, có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ nhất, được vua Trần Thái Tông đổi tên thành Lê phụ Trần. Lê Tần có con là Lê Trọng (sau được đổi tên thành Trần Bình Trọng). Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai, ông chiến đấu rất anh dũng bảo về đường rút quân của quân ta, quân ít bị bắt. Địch dụ hàng, ông đã mắng quân địch với câu nói nổi tiếng: “Thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”.
Con trai của Lê Trọng là Trần Bình Nguyên có con gái sau này là hoàng hậu của vua Trần Anh Tông sinh ra vua Trần Minh Tông.
Ông Lê Chân thuộc dòng dõi nhà Tiền Lê (sau đổi là Trần Khát Chân) đã đánh thắng quân Chăm Pa giết chết Chế Bồng Nga, chấm dứt các cuộc xâm lược của đội quân này dưới thời Trần.
Gần đây ông Lê Đắc Chỉnh (hậu duệ dòng Lê Long Việt) cung cấp tư liệu:Lê Long Việt làm vua 3 ngày thì bị giết, vợ con trốn chạy về Bắc Ninh (tại đây lập nên 6 chi, như phần trên đã viết). Năm 1077 con cháu hậu duệ Lê Long Việt ở Xá đông đã phối hợp với Lý Thường Kiệt tạo nên chiến thắng bến Như Nguyệt (5)
2- Quan hệ phả hệ giữa cụ Tổ Lê Đột và nhà vua Lê Lợi
Hiện nay đã sưu tầm được hai tài liệu liên quan về phả hệ Lê Đột-Lê Lợi.
a- Tài liệu của Lê Túc
Theo tài liệu của Lê Túc: vua Lê Lợi thuộc dòng Lê Đột, quan hệ đó như sau (4):
Lê Đột sinh Lê Lộ, Lê Lộ sinh 2 con là là Lê Thái Vương và Lê Luyến. Lê Luyến sinh 3 con trong đó có con út là Lê Nhân Lương (Đạo Lường- ngày giỗ là ngày 2 tháng 4), sau này phát triển thành nhà Hậu Lê. (Sau 200 năm từ Lê Nhân Lương đến Lê Duy Đào, Lê Túc chưa chắp nối được).
Lê Nhân Lương tiếp nối đến Lê Duy Đào (phò mã vua Trần) có vợ là Tiên Đào công chúa (ngày giỗ 5 tháng 8, mộ táng tại Đình Xá, Lý Nhân, Hà Nam).
Lê Duy Đào sinh được Lê Thọ Vực (ngày giỗ 16 tháng 1) có vợ là Nguyễn Thị Nhung Nương (ngày giỗ 22 tháng 11, mộ táng tại Hào Lương, Thọ Xuân, Thanh Hóa).
Lê Thọ Vực sinh Lê Hối (ngày giỗ 12 tháng 1) có vợ là Nguyễn Thị Ngọc Duyên (ngày giỗ 12 tháng 1, mộ táng tại Động Chiêu Nghi xã Thủy Chú, Lôi Dương, Thọ Xuân).
Lê Hối sinh 2 con trai là Lê Tòng (không có con trai) và Lê Đinh (ngày giỗ 28 tháng 10). Lê Đinh có vợ là Nguyến Thị Ngọc Quách (ngày giỗ 22 tháng 6, mộ táng tại Thủy Chi, Lôi Viên).
Lê Đinh sinh Lê Khoáng (ngày giỗ 16 tháng 2) có vợ là Trịnh Thị Ngọc Thương (ngày giỗ 17 tháng 10, mộ táng tại Ngọc Lạc, Thanh Hóa)
Lê Khoáng sinh 3 con: Lê Học, Lê Trừ, Lê Lợi (con út) lập nên nhà Hậu Lê sau này.
b- Tài liệu Lê Hoàng ngọc phả (Gia phả Lê Đại Tộc-Kinh Triệu Quận)
Theo tài liệu này: Lê Đột sinh Lê Lộ. Lê Lộ sinh Lê Thái Công (có vợ là Đặng Thị Sen) sinh ra nhà vua Lê Hoàn. Lê hoàn sinh ra 11 người con. Người con thứ 4 là Lê Long Đinh sinh ra con là Lê Thuận Tông (Phò mã đô úy trung tư lệnh –Thời Lý). Lê Thuận Tông sinh Lê Đạt, tiếp đó là Lê Kiếm (Trung thư đô ngự sử-thời Lý)-Lê Quý Công 1-Lê Quý Công 2-Lê Quý Công 3-Lê Thứ (Môi) vợ là Đinh Thị, tiếp là Lê Hối 1-Lê Hối 2 có vợ là Nguyễn Thị Ngọc Lộc (Duyên)-Lê Đinh (Thinh) có vợ là Nguyễn Thị Lan. Lê Đinh sinh 2 con là Lê Tòng và Lê Khoáng. Lê Khoáng sinh 3 con là Lê Học, Lê Trừ và Lê Lợi lập nên nhà Hậu Lê (Ghi chú 1).
c- Một vài ý kiến về 2 phả hệ trên
Cả hai tài liệu trên đếu thừa nhận nhánh Lê Hoàn (Tiền Lê) và Lê Lợi (Hậu Lê) đều có chung cụ tổ là Lê Đột. Tuy nhiên đường dẫn truyền từ Lê Hối (cụ Tổ 3 đời của Lê Lợi) đến Lê Đột rất khác nhau:
Hoàng Lê ngọc phả: dẫn truyền từ Lê Hối sang nhánh Lê Hoàn thông qua con Lê Long Đinh là Lê Tông Thuận (gần đúng theo theo sử liệu: Lê Long Đinh con thứ ba của Lê Hoàn trấn trị ở đất Phong Châu. Sử thời Lý ghi: Lê Thuận Tông quê ở Phong Châu , năm 1036 lấy công chúa Kim thành-nhà Lý).
Phả hệ của Lê Túc từ thời Lê Hối dẫn đến Lê Đột thông qua Lê Nhân Lương là con út Lê Luyến (Lê Quan Sát).
Cả hai tài liệu trên hầu như để trống đường dẫn truyền (ở thời Lý) từ Lê Hối đến cụ Tổ Lê Đột, Hoàng Lê ngọc phả lấp khoảng trống này bằng cách lập lại 3 đời đều có tên là Lê Quý Công (đúng ra phải lập lại 5 đời, nếu tính bình quân mỗi đời là là 30 năm).
Tài liệu của Lê Túc ghi Lê Hối dẫn đến là Lê Thọ Vực rồi đến Lê Duy Đào, sau đó để khoảng trống đường dẫn lên đến Lê Nhân Lương. (Tài liệu này hình như có nhầm lẫn: Lê Thọ Vực và họ Lê Duy phải xuất hiện muộn hơn ở nhánh Lê Trừ-anh Lê Lợi).
Theo chúng tôi (thuộc dòng Lê Luyến ở Phong Mỹ, Thọ Xuân) thì dòng Lê Hối nên chắp nối đến Lê Nhân Lương (Đạo Lường). Đoạn chắp nối liên tục từ Lê Hối đến Lê Nhân Lương chúng tôi vẫn chưa tìm được tài liệu (vẫn để trống). Tuy nhiên đường dẫn truyền này vẫn có thể thừa nhận nhờ các tư liệu dưới đây.
Cụ Tổ Lê Đột thuộc dòng Việt cổ bản địa (khá gần với dòng người Mường bản địa). Thời đó Phong Mỹ (nơi sinh ra cụ Lê Đột) và Lam Sơn (nơi sinh ra Lê Hối) đếu nằm trong địa phận Phúc địa (huyện Thụy Nguyên) thuộc quyền quản trị của người Mường (vùng này đếu có họ Lê ở cả người Mường và người Việt) Lê Luyến có 3 con, trong đó có hai con Lê Đại Lương và Lê Nhân Lương đều được phong đạo là Đạo Lương và Đạo Lường, Lê Lợi được phong là Đạo cham. Vì vậy Đạo Lường và Đạo Cham có thể cùng một gốc (là họ Lê Đột). Đạo lương không có con trai , Lê Đức (tự Nhân Đức) phát triển thành dòng họ Lê (5 chi ở Phong Mỹ). Đạo Lường được phong Đạo ở vùng Phúc Địa (Lam Sơn nằm ở trong vùng này) có lẽ là bậc trên của Lê Hối.
IV. Lời kết:
Dòng tộc Lê Đột là một dòng họ lớn của nước ta. Dòng họ đã có mặt rất sớm trên đất nước Đại Việt (cách ngày nay trên ngàn năm).
Dòng họ đã sinh ra nhà vua Lê Hoàn lập nên triều Tiền Lê và nhà vua Lê Lợi lập nên triều Hậu Lê. Đó là các triều đại nổi tiếng trong lịch sử nước ta.
Qua các thời kỳ phong kiến, Pháp thuộc và sau cách mạng tháng 8, con cháu dòng họ Lê Đột đã không ngừng đóng góp vào việc giữ nước, xây dựng và phát triển đất nước, xứng đáng với truyền thống vinh quang của dòng tộc.
Gia Phả Họ Lê Đột
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc Họ Lê Đột.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc Họ Lê Đột
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.