GIA

PHẢ

TỘC

Phạm
Phú
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
VIẾT VỀ GIA SỬ CỦA DÒNG HỌ



Đất nước có lịch sử của Dân tộc. Mỗi dòng họ đều phải có nguồn gốc của Tổ Tiên. Chính vì vậy mỗi dòng họ cần phải có Phả ký và cũng chính vì thế mỗi một Gia tộc nên sưu tầm, ghi chép, xác minh những cứ liệu, dấu tích theo thứ tự niên biểu của từng Nhánh, từng Chi trong một dòng họ cùng chung một Thủy Tổ để lưu truyền mãi cho đời sau."Người ta sống trong trời đất ai đều cũng phải có Tổ Tiên, vì vậy con cháu phải có hiếu, có lễ với Tổ Tiên và đừng quên rằng có Tổ Tiên mới có mình".Dòng họ Phạm Phú làng Cỏ Mân đã có Gia phả ghi lại. Cuốn gia phả này ghi lại cánh họ Phạm Phú là hậu duê của Ông Phạm Phú Hảo ly hương từ làng Cỏ mân xuôi theo dòng sông Cái ra Cửa Hàn rồi ngược sông Trường Định, Thủy Tú sau đó xuống thôn Vân Dương sinh cơ lập nghiệp, nơi đây cụ bắt đầu lấy vợ sinh con đẻ cái, con cháu từ đây tỏa đi tiếp qua thôn Hưởng Phước lập nghiệp. Từ lâu rồi tôi mong muốn có nhiều thời gian rãnh rỗi để giúp Ba tôi ghi chép lại những gì mà ông biết về dòng họ Phạm Phú ở thôn Hưởng Phước và thôn Vân Dương xã Hoà Liên, Huyện Hoà vang. Tôi cũng đang cố gắng thu nhập thêm tài liệu từ các bậc tiền bối để ghi chép lại gia phả. Phải đợi sự cho phép của các ông và các bác trong dòng họ Phạm Phú mới được đưa lên trang nhà Việt Nam Gia phả. Hiện tại được sự đồng ý của Ba tôi là ông Phạm Phú Trưng, tôi chỉ được phép đưa lên tranh nhà Việt nam gia phả từ đời ông Cố của tôi là ông Phạm Phú Luông trở xuống mà thôi. Sau này nếu được sự đồng ý của các Ông các bác trong họ tộc Phạm Phú, tôi sẽ bổ sung thêm cho đầy đủ hơn. Những người có công đầu trong trong việc ghi chép lại cuốn Phả hệ đồ (Phú ý) này là Ba tôi - Ông Phạm Phú Trưng nhờ Ông Hai Đây (một người am hiểu về nguồn gốc lai lịch các dòng họ trong thôn Hưởng Phước và thôn Vân Dương) hệ thống và ghi chép lại và có tham khảo ý kiến của ông Phạm Phú Sau và ông Trần Văn Hoạt (tác giả cuốn Lịch sử đấu tranh cuả Huyện Hoà Vang trong 2 thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ, đã mất năm 2005).
Thay mặt con cháu của dòng họ Phạm Phú xin đa tạ các Vị Chưởng bối, các vị tiền bối, để con cháu Phạm Phú chúng tôi có được cuốn gia phả này.

http://vietnamgiapha.com/XemGiaPha/836/giapha.html

Cổ Mân- Lũy tre làng
03/11/2011
"Xứ đồng", ai đó ở bên kia bờ Bắc cầu Cẩm Lệ đã ít nhất một lần đặt chân đến quê tôi và đặt tên. Có lẽ, cảm nhận trước tiên là không khí dễ chịu bên lũy tre xanh. Bởi Hòa Đa, làng làng đều có lũy tre, nhà nhà đều có bụi tre quanh khu vườn. Buổi trưa hè ngọn gió nồm từ phía sông mang hơi nước hòa cùng “hơi thở” của rặng tre làng. Hòa Đa là vùng quê trũng, ruộng đồng bằng phẳng, không một gò đồi. Phải chăng, bụi tre còn là vật cản để chế ngự thiên nhiên bão, lụt hằng năm và lũy tre che chở người quê làng tôi suốt hai mùa kháng chiến trường kỳ.Mấy nhịp cầu tre
Đường về 3 thôn (làng): Cổ Mân, Tùng Lâm và Liêm Lạc được bao quanh bởi con sông Cái và nhánh rẽ sông Quá Giáng, ví như ốc đảo xanh vậy. Mấy nhịp cầu tre chênh vênh nhỏ bé, nối liền đôi bờ Cổ Mân- Lổ Giáng, cầu nép sau lũy tre làng ngay đầu ngõ nhà ông Hương Én. Cầu làm bằng tre với tre, chân cầu là từng cặp cây tre bắt chéo hình chữ X, mặt cầu trãi vài cây tre thân thẳng, đối đầu lại tạo bằng để đi lại, tay vịn lan can là thân tre ghép nối tiếp nhau từ đầu cầu bên này sang bên kia, liên kết tre với tre là lạt tre cật, buộc tréo trả rất chắc chắn. Người làng tôi sớm chiều chạy chợ, ra phố làm thợ, học trò hai buổi tung tăng đến trường…tất cả đều thông qua cầu tre này, nếu không phải đi qua đò ở các bến sông Liêm Lạc hoặc Tùng Lâm. Khi nhỏ tụi xóm tôi hay ngồi trên cầu bắt chéo chân câu cá lúc chiều chiều, cá nhiều vô kể, cắn câu cú một. Khi cá cắn câu, rị phao ngập nước là dấu hiệu giựt cần dứt khoát, cá theo dây lên bay vòng cung lên không trung, nhớt cá tán sắc dưới ánh dương tà, tạo sắc cầu vồng bảy màu, lấp lánh bên rặng tre làng. Thú vị lắm, cá cắn câu là lúc truyền động rung lên cần câu tre ở bàn tay cảm giác tê tê, sướng sướng làm sao! Dòm vào giỏ tre đầy cá, rồi là tụi tôi rủ nhau bùm xuống nước, bơi vòng vòng cho đã đời rồi mới chịu vác cần về.
Chiếc ghe tre bé tẻo teo của bà Bốn Nhự sáng mỗi tinh mơ, với tiếng gõ dầm tre vào ghe kêu lốc cốc, tạo điệu nhạc kích động lan truyền theo mặt nước để xua cá chạy mắc lưới, phạm vi hoạt động lưới cá của bà quanh quẩn tới lui điểm chân cầu này. Cũng tại đây, lâu lâu tụi tôi thấy chiếc ghe chèo có buồm ở tận cửa Hàn, ghe buôn muối, đổi gạo. Thế rồi, có một chiều hôm ghe chở muối đến và ghe ra về không mang theo gì cả. Ngày ấy, tôi không thể nào quên được: Cùng bao số phận “màng trời chiếu nước” như bao làng quê khác, Cổ Mân làng tôi xác xơ sau nạn đại hồng thủy năm Giáp Thìn- 1964. Không một mảnh chiếu em bé nằm, không một chiếc áo còn sót lại để người già tròng thêm đỡ lạnh đêm đông, lúa ướt lên mộng, trâu bò, heo gà… cũng cuống trôi theo dòng lũ ra biển Đông. Đói và đói đã trùm lên cảnh quê nghèo, người làng tôi đem mo tre xuống ghe mua chịu muối đùm về. Còn chiếc “cầu tre thời vụ” nay cũng đã nhịp theo dòng nước lũ tuôn ra biển khơi mất hút.
Rồi mùa mưa lũ cũng đi qua và để chuẩn bị xuống đồng vào vụ cấy là lúc người làng tôi hàn gắn lại chiếc cầu tre như ngày nào và chuẩn bị đón Xuân về. Mấy nhịp cầu đưa duyên nối liền đôi bờ người đi, kẻ nhớ năm tháng êm đềm trôi.
Tôi nhớ y chang, liền sau một năm, làng tôi dính cơn bão “ bay cối đá”, bão tố hung dữ làm lay động toàn bộ những gì trên mặt đất, các lùm tre xóm tôi ngã theo một hướng. Lúc bão đang tạm ngưng, bọn trẻ xóm tôi khờ dại, tung ra khắp mọi ngõ đường, đi hôi măng tre do bị bão bẻ làm đôi nằm la liệt tại chỗ. Ông trời đang đứng gió, bỗng mây kéo xám xịt cả không trung, thế là gió lại nờm (mắt bão), gió lúc này khủng khiếp hơn rất nhiều. Ôi thôi, "bỏ của chạy lấy người", "dột lịa" xuống hầm núp đạn để trú bão. Cuồng phong mắt bão đi qua, ông “thần gió” đã bợ tất cả lùm tre bật trả lại dáng đứng ban đầu, tre lúc này chỉ còn xương với xương, vì lá đã lìa cành bay tung té khắp nơi rồi. Chiếc cầu tre mỏng manh kia cũng nghiêng ngã đôi chút.Tre gắn bó với người làng quê
Trong cuộc sống hằng ngày, trăm thứ gần như tre “có mặt” từ “A tới Z”: Từ cái nhỏ nhất là que tăm tre, đũa tre, chỗi tre, cán dao, rựa, cuốc, phạn bằng tre, đến nhà tranh tre, ghe tre, thúng, mũng, rổ tre, ống thổi lửa, gầu tát nước bằng tre…Củi trối tre chụm đượm lửa nên hay dùng nấu nồi bánh tét đón giao thừa, nan tre làm quạt mo, gai tre rào gà phá cải, lá tre quét quanh vườn chụm bếp. Nằm trên chõng tre đặt dưới lùm tre, kĩu kịt buổi trưa hè gió nồm mát rượi, rất khoan khoái khi nhìn lên ổ chim chột dột đong đưa trên ngọn tre cùng tiếng gió xào xạc, êm êm đi dần vào giấc trưa ngon lành.
Có những chiều hôm tôi mò cua, nhổ rau má cá ở đồng xa mà cứ cứ dõi mắt về lũy tre làng, nhất là thời khắc hoàng hôn buông xuống là lúc những áng mây chiều tím rịm như từ lũy tre ùa ra, những đàn cò trắng thung thăng bay về tổ, dưới mặt đất khói lam chiều, cơm nhà ai thổi bên lũy tre làng ấm áp làm sao!
Tôi nhớ rất rõ, có ông Hai Trợ tuổi ngoài 70, người ở bên phố Cẩm (tên gọi ở Cẩm Lệ lúc bấy giờ), ngày ngày với cặp thúng tre cõng trên vai, gánh bún tươi đến làng Cổ Mân đong lúa. Rất độc đáo cái đòn gánh cong bằng tre của ông, hai đầu ngửa lên trời như mống ngược, gánh vậy mà sao không đau vai, mà sao gánh không hề bị lật? Kỳ thật! Khoảng đứng trưa là ông giải quyết xong gánh bún, ông nhấp rượu sica và “kéo hò khoan” cùng với ông Ba Độ. Lúc tụi tôi đi học về, vây quanh nghe hò dưới vòm tre xanh, nơi đây cũng là điểm dừng chân của nhiều người, nghỉ đường tranh thủ thưởng thức câu hò “miễn phí” thì đã lắm. Tôi nhớ như in, ông hò nhiều lần câu như ri: “Việt minh giải phóng đồng bào, ai muốn giải phóng thì vào…(thì vào) Việt minh. Khoan hợi là… hò… khoan”. Miết sau nầy, tôi mới hay là ông đang nối kết hoạt động cách mạng ngầm với ông Ba Độ người ở làng, ông nuôi vịt bầy ở bến sông Hương Bạn. Ông đan đác đồ gia dụng bằng tre bán cho dân. Ông Ba Độ dùng ghe tre của mình lúc hoàng hôn buông xuống để lùa bầy vịt về chuồng, nhưng tiếng gõ cáng sào tre và tiếng la giọng ông đuổi vịt hàng ngày dài, ngắn, to, nhỏ có khác nhau. Đó là âm hiệu để báo hiệu cho anh em du kích đang ở dưới công sự nhận biết tình hình: Địch, ta, có, không, nhiều, ít...Tre cùng người đánh giặc
Sau lũ năm Thìn, làng mạc xơ xác và là lúc quê tôi đầy bóng giặc, người làng tôi thanh niên nam, nữ đa phần lên núi hoạt động cách mạng, còn người ở lại tham gia du kích địa phương. Lính Bảo an ngày ngày đi lùng khắp nơi, lũy tre làng lúc bấy giờ là nơi ẩn nấu, che chở quân du kích, lũy tre che chắn tầm nhìn đối phương, chông tre vót nhọn để bẫy giặc thù, chông đặt dọc bờ mương dẫn vào làng, kiểu như “trận Bạch Đằng” trên cạn vậy. Quân du kích đào hầm bí mật (công sự), bọc lót hầm bằng mành tre và lổ thông hơi làm bằng ống tre mỡ, nắp hầm ngụy trang bằng lá tre, hoạt động du kích thường chọn bụi tre là nơi an toàn nhất. Thỉnh thoảng, du kích nổi lên, ẩn trong bụi tre, “canh me” bắn bia địch là trúng phát một. Còn chiếc cầu tre Cổ Mân được làm đi, làm lại có bàn tay tình nguyện của ông Bê, ông Chiến, ông Cẩm…Đó là những người tích cực làm thí công cho dân đi lại. Ấy vậy, khi chiến sự xãy ra thì chiếc cầu tre này “tạm nghỉ”, cắt mạch lưu thông để vây địch, tháo cầu vào ban đêm để khỏi bị lộ theo kế hoạch tác chiến. Ui, sáng ra tụi tôi đi học đến đây chớ hớ vì cầu mô mất, chỉ thấy lá cờ giải phóng màu xanh, đỏ, sao vàng tươi rói trên cây sào tre cặm tại bờ. Tuổi còn nhỏ tụi tôi hồn nhiên quá, chỉ biết làm cầu và tháo cầu đem cất giấu cũng các ông xóm mình thôi. Không có cầu, dân làng tôi đi lại thì chịu khó xăn quần bó háng, lội bộ ở bến cạn sau nhà bà Thủ Bán vậy.
Tiếp theo chiến dịch Mậu Thân- 1968, giữa khuya đêm Mồng 6 Tết Kỷ Dậu- 1969, một trận đánh quy mô diễn ra ngay trong làng, không kém gì Tết năm trước, bộ đội khoắc hầm bầu dục chắc cú dưới gốc tre lúc chạng vạng tối, Hòa Đa là bàn đạp đánh vào phi trường Đà Nẵng. Cả nhà tôi lo ăn sớm xuống hầm núp đạn, hầm hình chữ A làm bằng tre gốc kiên cố, nhà nào cũng có hầm trú đạn, dân làng coi hầm núp đạn quan trọng hơn nhà ở. Thế là trận đánh khốc liệt đang diễn ra, lũy tre làng lúc này nghiễm nhiên trở thành “hàng binh” hùng hậu, kiên cường đánh Mỹ, và cây tre cũng trở thành “chiến sỹ”. Mỗi lần máy bay phản lực F.130 chúc đầu xuống thả bom, vừa ngóc lên là liền theo đó: “ầm ầm”, tiếng bom nổ đôi choảng choảng, máy bay bà rà C-130 thả đèn hỏa châu sáng trưng cả bầu trời kèm theo âm thanh “úc úc” của ống đèn sáng rơi xuống đất, rất nhiều chiếc dù đèn hỏa châu màu trắng phốc hạ đất, có cái còn dính tòng teng trên ngọn tre, còn máy bay chuồn chuồn HU1A nhã đạn rốc kết inh tai liền hồi, nghe "thất thanh" khiếp đởm đến run sợ. Bộ đội dưới đất bắn trả tưng bừng khói lửa, xé tung cả màn đêm, khói đạn bay vào cửa hầm nồng nặc. Bom đạn dội xuống mặt đất, có bụi tre “đỡ chưởng” che bớt cho người và nhà cửa. Cây tre là hình ảnh của “xứ đồng” quê tôi, tre gắn bó với con người làng quê suốt cuộc đời, khi mở mắt chào đời, nôi tre ru em bé ù ơ, đến lúc tuổi già “xế bóng” thì lạt tre dùng buộc quan tài theo người quá cố ra đi. Ngày nay, đọc Nhật ký Chu Cẩm Phong, tôi càng xúc động mỗi khi bắt gặp rất nhiều hình ảnh chiến sỹ với cây tre, bụi tre, bờ tre... rất chi là gần gũi và thân thương với cuộc đời nhà báo chiến trường đầy khí phách anh hùng trong Anh. Ngày hòa bình, thống nhất đất nước, Hòa Xuân lấy lại tên gọi hồi thời kỳ Việt Minh, thay thế cho xã Hòa Đa. Hòa Xuân bây giờ đang diễn ra tốc độ đô thị hóa, sắp xếp lại nhà và đất vì tương lai con cháu ngàn năm. Xưa tôi ở trong làng, bây giờ làng ở trong tôi, lũy tre xanh đã nuôi dưỡng tâm hồn tuổi thơ tôi. Và, sẽ mãi mãi không còn nữa bóng tre làng ngày nào, còn ký ức xanh mãi trong tôi: Cổ Mân- lũy tre làng./.
Kiều Văn Lũy
(tháng 10/2011)
Gia Phả Phạm Phú
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc Phạm Phú.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc Phạm Phú
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.