Lời nói đầu
Nước chảy có nguồn người sinh phải có tổ.Tất nhiên người là sinh ra là do cha mẹ, cha mẹ sinh ra là do ông bà. Cứ như thế truyền nối sinh sản mãi mãi, từ đời này đến đời kia, cho đến có chúng ta ngày nay. Từ đó, ta nhìn trở lại người sinh đầu tiên thì gọi là nguồn gốc tổ tiên.
Chúng ta muốn biết được nguồn gốc và lịch sử tổ tiên là phải có gia phả, đó là gia đình.
Còn muốn biết được nguồn gốc và lịch sử của tổ quốc là nhờ có lịch sử.
I/.Đúng vậy: sở dĩ chúng ta ngày nay biết được. Nước ta xây dựng nên có từ họ hùng bàng, họ hùng bàng làm vua trước tiên lấy hiện là hùng vương và nối tíêp qua các thời đại là: Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn cho đến nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay.Qua các xã hội trên luôn luôn có sự đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc dân chủ, phát huy truyền thống đấu tranh, đánh thắng bao kẻ thù xâm lược như: nhà Hán, Tống, Nguyên, Minh, bọn xâm lược phương Bắc ngày xưa, Pháp Mỹ phương Tây (1945-1975)
Vừa qua, là nhờ có lịch sử đất nước, do ông Lê Văn Hiên nhà sử học đầu tiên nước ta lập nên.
- Đối với gia đình: như họ Nguyễn Đình chúng ta nhờ có gia phả nên biết được : cụ thông tổ họ ta là Nguyễn Phi Khanh (tức nguyễn Ứng long) mà cụ tổ phân chi thứ 6 (chi là) là Nguyễn Đinh Lam cháu 14 đời của cụ Nguyễn Phi Khanh. Và là cháu 13 đời của cụ khởi tổ trực sinh ra chi ta là Nguyễn Nhữ Loan, cha truyền con nối đến nay là 22 đời so với tông tổ, tổ tiên ta từ đời này đến đời khác, luôn luôn có một gia phong uy thế, có tài có đức, hiếu trung vẹn tròn, góp phần quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc, qua các thời đại, làm rạng rỡ tông môn, dòng tộc như:
- Cụ thông Tổ Nguyễn Phi Khanhthi đậu tứ Tiến Sĩ, danh bảng nhãn năm 1373 thời nhà Trần. Sau cáo quan hàm lâm học sĩ, thiện tại phủ Quốc Tử Giám thời nhà Hồ.
- Cụ Nguyễn Trãi con đầu Cụ Phi Khanh thi đậu Tiến Sĩ năm 1400 tuổi 21 tuổi, làm quan Ngự Sử triều nhà Hồ. Sang nhà triều nhà Hậu Lê được phong chức: Thái Bảo Khê Quận Công, tế văn hầu trụ quốc.
- Vợ thứ hai của cụ Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ làm quan thời Hậu Lê giữ chức Lễ Nghi Học Sĩ .
Nay cụ Trãi lại được tặng nhà Đại Văn Hào Quốc Tế, lừng lẫy khắp năm châu bốn biển.
- Cụ Nguyễn Như Loan, con thứ 6 của cụ Phi Khanh, là em thứ 5 của cụ Nguyễn Trãi cùng cha khác mẹ.
- Từ năm 1415 là một trong ban lãnh đạo nghĩa quân Lam Sơn, đánh giặc Ngô, thời nhà Hậu Lê, phong chức: thái phó tỳ quốc công, bình ngô khai quốc, bão chính minh nghĩa thượng đẵng phúc thầu.
- Các con cụ Soạn là:
Cụ Nhữ Trực giúp nhà Lê đánh giặc Ngô, phong chức Vương Quận Công.
Cụ Nhữ Ngộ con thứ 2 cụ Soạn giúp nhà Lê đánh giặc chiêu thành phong chức kiêu quận công.
Cụ Nhữ Lương giúp nhà Lê dẹp chiêu Thanh phong chức đại lộc hầu tướng quân.
Cụ nguyễn Đình Khế cháu thứ 5 đời cụ Soạn giúp nhà Lê dẹp giặc Mạc phong chức tuyên lực quận công cho đến con cháu chúng ta hiện nay, phát huy truyền thống tổ tiên, giữ vững luân thường đạo lý, đoàn kết thương yêu nhau, bảo vệ gia tộc, bảo vệ đất nước hàng trăm hàng ngàn người tham gia công cuộc giải phóng bảo vệ đất nước, không có gì quý hơn độc lập tự do mà Bác Hồ đã dạy.
II/ .Nói về gia phả họ Nguyễn Đình chúng ta là do cụ Nguyễn Đình Độ đời thứ 4 là con cụ Ng. Nhữ Ngộ cháu đích tôn cụ Ng. Nhữ Soạn. Tính đến đời thứ 22 chúng ta ngày nay thì cụ Ng. Đình Độ cụ tổ 18 đời (kể từ đời cụ Độ) của họ là lập ra gia phả, sau đó được bổ sung của từng đời rất đầy đủ. Nhưng do những cuộc sự đấu tranh trong nội bộ từ xã hội này đến xã hội khác, nhất là đến thời đại nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, cuộc đấu tranh giai cấp (Cải cách ruộng đất) vào khoảng 1953-1955, đã bị tịch biên ở một số chi trong Tộc hoặc bị thất tán. Vì vậy làm cho phả ký họ Nguyễn có sự mai một một phần. Vào những năm 1957-1958 nhờ có các cụ có trình độ chữ Hán, Nôm giỏi đã sưu tầm gia phả ở các chi, các dòng về tập hợp lại được điển hình là các cụ sau:
1. Nguyễn Đình Học ở Lan Trà huyện Tỉnh Gia
2. Nguyễn Đình Thám ở Nhị Khê,
3. Nguyễn Đình Hội ở Cẩm Nga (vẫn giữ được cuốn gia phả)
Sau đó các cụ đã dịch cuốn Gia phả tập hợp lại được ra Quốc Ngữ, để phổ cập thời hiện đại.
Ngoài ra còn có ông Nguyễn Sinh Lạng, ông Nguyễn Đình Trần cùng là cháu đời thứ 19 đã lập ra đồ phả từ cụ thủy tổ Nguyễn Phi Khanh đến đời thứ 22 giúp cho mọi người trong họ có thể dễ dàng xem phả hệ và biết được nguồn gốc của chi mình.
Trên cơ sở những tài liệu đó và một số các tài liệu Lịch sử bổ sung thêm ông Nguyễn Ngọc Bảo cháu đời thứ 19 đã đưa gia phả dòng họ Nguyễn trong đó có tộc phả họ Nguyễn Đình lên trang web để cho mọi người trong và ngoài họ xa gần đều biết
Nhờ đó mà tình thân ái gia tộc ngày càng đoàn kết, chặt chẽ, biểu hiện ngày 8/4 hàng năm ngày giỗ Tổ con cháu gần xa về họp mặt đông đủ để tham dự lễ giỗ Tổ họ Nguyễn Đình.
Gia phả nó còn phản ánh sự phồn thịnh, sự phát triển của dòng họ sau này, do đó lại còn đòi hỏi việc ghi chép gia phả mới phải được thường xuyên, nối tiếp, rõ ràng và tỉ mỉ hơn, và phải liên tục cập nhật cho đầy đủ.
Với mục đích và ý nghĩa, tác dụng của gia phả như vậy. Do hiện tại gia phả chỉ có chi cấp 6 của cụ Nguyễn Đình Lam là tương đối cụ thể nên phần gia phả này cập nhật trước. Các chi còn lại khi có đủ tài liệu sẽ cập nhật thêm, mục đích là nhằm làm cho con cháu bây giờ và trăm đời sau giữ được nguồn gốc, ngôi thứ và luân thường đạo lý. Giữ gìn truyền thống bản chất tổ tiên ta.
Tất nhiên ở đây trình độ văn học và sự hiểu biết chỉ có hạn, khiến cho người chép bút có mức độ, còn nhiều thiếu sót.
Mong rằng con cháu kế tiếp các đời sau cố gắng sưu tầm, diễn đạt, truyền nối phải được thường xuyên đầy đủ rõ ràng chú trọng hơn.
III.gia phả chi ta phần đầu theo gia phả tại tông.
A.
Nói về thân thế sự nghiệp, thủy Tổ Nguyễn Phi Khanh.
1. Nói sơ luợc về chi trưởng: Nguyễn Trãi
2. Nói về thân thế sự nghiệp cụ tổ thân sinh còn gọi là khởi tổ Nguyễn Nhữ Soạn của chúng ta và các Cụ Tổ theo đàng trực sinh ra chi cấp 6 cụ Nguyễn Đình Lam.
B. Di sản và tông mỹ của chi cấp 6 Nguyễn Đình Lam.
C. Giới thiệu đồ phả.
Phần này chia làm 4 mục
I/mục I/A phần chính cụ Lam giòng Ng. Nhữ Ngộ
A1: ông Mạo (con cả)
A2: ông Tể (con thứ 2)
A3: ông Cường (con thứ 3)
-I/B: -chi ông Thiềng (ông Ngân + Nghị + Đội )
-ông Cán (tổ là ông Hy + ông Hiệp)
-I/C dòng ông mực (ông Phong + Điềm + Đỉnh + Hội )
ở nhà ông Hải Đội và ông Hớn
Mục II chi ông Phong (giòng ông Đễnh)
-II/A ở ông Phong (Thuyên)
ở ông Hợp (thứ)
ở ông Đoan (Tuyết)
-II/B ở ông Lịch (ông Thể)
ở ông Lợi (ông Liễu)
ở ông Tá (ông Phạm)
Mục IV : chi ông Lọc (giòng Ng. Nhữ Lương)
(gồm ở chi Lọc +Sâm ngượi)
Mục III chi ông Đòng (nhược) giòng ông Ng. Đình Đạo
Tháng 7 năm canh ngọ
Cháu 5 đời
Tự: văn hưng
Phần thứ 1
CỤ THỦY TỔ NGUYỄN PHI KHANH
Trong phần này ghi theo gia phả đại tông. Chọn lọc môt số điểm chính.
I. Cụ thuỷ tổ: Nguyễn Phi Khanh
Cụ nguyễn Phi Khanh tức là cụ Nguyễn Ứng long. Hiệu là Nhị Khê Tướng Công, thời vua Trần cụ thi đậu tới Tiến Sĩ danh Bảng Nhãn năm 1373. Nhưng không được bổ dụng ra làm quan. Vì cụ lấy vợ cả là Trần Thị Thái, con gái con Tư Đồ Trần Nguyên Đán, lúc bấy giờ nhà Trần cấm con gái nhà Trần không được lấy chồng ra ngoài họ. Nên cụ Phi Khanh bị quy tội là con nhà thường dân lại lấy con nhà Hoàng Tộc.
Mãi đến khi Hồ Quý Ly lên thay ngôi nhà Trần. Cụ nguyễn Ứng Long cải tên là Nguyễn Phi Khanh và được gọi ra làm quan, nhà Hồ phong chức là Hàm Lâm Học Sĩ, Thiện Đại Phu, Quốc Tử Giám.
Đến năm 1410 giặc Ngô phương Bắc tức là quân nhà Minh sang xâm chiếm nước ta, một số vua quan bị bắt trong đó có cụ Ng. Phi Khanh. Chúng giải cụ về Bắc quốc, đưa tiễn cụ có cụ Nguyễn Trãi là con đầu và cụ Phi Hùng là con thứ 3 đến mục Nam quan. Khi đó Cụ Phi Khanh có bảo cụ Nguyễn Trãi rằng con là người có học có tài nên trở về cố Quốc mà thuyết sĩ phục thù để lưu danh thiên cổ về sau mới là có hiếu. Cụ Trãi gạt nước mắt trở về còn cụ Phi Hùng theo cha ngày đêm hầu hạ. Sau đó nhà Minh thuyết phục không được bèn xử trảm. Cụ được con trai - Phi Hùng đem thi hài trở về mai táng trên đỉnh núi Bái Vọng sau khi phong mộ có vịnh rằng:
Bái vọng non sông cảnh đẹp kì
Ngàn năm thế phả hãy còn ghi
Đồi liền ba ngọn non cao vút
Một việc mênh mong nước phẳng lì
Hài cốt yên phần nơi đất cũ
Chia tay thắm thiết lạy cha về
Nợ nước thù nhà xin trọn vẹn
Ở dưới suối vàng hả lòng cha
Cụ Khanh thủy Tổ họ ta thực là người thông minh, hiểu biết rộng, biết phong thuỷ, biết tiền đồ hậu vận có dự sinh quyết đoán hẳn hòi. Con cháu sau này phát triển đông vui, trí tuệ tài ba nối nghiệp ông cha, làm cho thế nhà lừng danh tráng tử. Từ đó họ suy tôn cụ Thủy tổ (thông tổ), bây giờ các chi các cháu con cháu gần xa chúng ta mới có:
Nói về gia thất
Quê gốc: xã chi ngại, huyện Phượng Nhãn, phủ Lạng Giang Kinh Bắc nay là thôn Chi Ngại xã Cộng Hoà huyện Chí Linh Hải Dương nay còn 1 chi ở đó sau chuyển về làng Hạ, xã Nhị Khê, huyện Thượng Phúc phủ Thường Tín, đạo Sơn nam Hà Đông nay gọi là làng Nhị Khê xã Quốc Tuấn huyện Thường Tín tỉnh Hà Đông nay là Hà Tây.
Cụ lấy 2 vợ sinh được 7 người con:
Bà vợ cả Trần Thị Thái sinh 5 người
1.Nguyễn Trãi :con đầu nay ở Thường Tín, Hà Tây
2.Nguyễn Bảo: thất lạc ở đâu không rõ
3.Nguyễn Hùng: nay thuộc làng Phù Khê xã Nghĩa Khê huyện Từ Sơn tỉnh Hà Bắc
4.Nguyễn Ly nay bị thất lạc
5.Nguyễn Bằng bị thất lạc.
Bà vợ 2 là Nhữ Thị Hoàn sinh được 2 người con
6.Nguyễn Nhữ Soạn con thứ nhất bà họ Nhữ thời hậu Lê làm quan Thái Phó Ty Quốc Công nay sinh ra con cháu thành Chi ở Đông Sơn Thanh Hoá.
7.Nguyễn Nhữ Trạch con thứ 2 nhà họ Nhữ nay sinh ra con cháu thành 1 Chi làng Bòng Thanh Hoá
Các cụ Tiền sinh có vịnh rằng:
Phi Khanh thông tổ của họ ta
Bảng Nhãn triều Trần chiếm đại khoa
Nước biến quân Minh tàn khốc liệt
Nam quan đất khách chịu bôn ba
Phi Hùng ở lại mang hài cốt
Nguyễn Trãi trở về rửa nhục cha
Dặn bảo ân cần con phải nhớ
Trả xong nợ nước với thù nhà
II.Nói về sự nghiệp của Chi trưởng ở Nhị Khê
Khởi tổ của chi trưởng là Cụ Nguyễn Trãi là con đầu của cụ Phi Khanh hiệu là Ức Trai tiên sinh. Năm 1400 là 21 tuổi thi đậu tiến sĩ triều Hồ sau ra làm quan giữ chức Ngự Sử. Vào 1410-1415 quân nhà Minh sang xâm chiếm nước ta một số vua quan triều Hồ bị bắt giải về Trung Quốc, cụ Trãi sau cũng bị bắt giam lỏng ở Đông Đô thời gian 10 năm.
Để thực hiện lời dạy của cha khi bị bắt là phải tìm cách rửa nhục cho nước báo thù cho cha đó là đại lý. Nên cụ tìm cách trốn ra ngoài với người cậu ruột là Trần Nguyên Hãn tìm đến nghĩa Quân Lam Sơn do Lê Lợi đứng đầu để đánh giặc cứu nước và báo thù cho cha. Sau đó trở thành quân sư xuất sắc của Lê Lợi về nhiều mặt như binh thư chiến lược, văn thơ kiệt xuất.
Sau khi kháng chiến thành công cụ đã làm bài Bình Ngô Đại Cáo (tức là bảng tổng kết kháng chiến nổi tiếng) giúp Lê Lợi xây dựng quốc gia vững mạnh, ngoài ra cụ còn để lại nhiều tác phẩm giá trị như “Lam Sơn thực lục” và sách “Quân chung từ mệnh tập”…v…v…
Cụ đã được suy tôn ca tụng là người tài ba lỗi lạc con người rất hài hòa trung thực khí trí vững vàng, tinh thần đấu tranh bất khuất , trung hiếu vẹn toàn, làm đúng lời dạy của cha là đền nợ nước trả thù nhà bằng ngòi bút thay kiếm cung, góp phần đánh bại giặc Ngô lấy lại Sơn Hà. Cùng với Lê Lợi lãnh đạo nhân dân kháng chiến thắng lợi, giành độc lập cho nước nhà, Lê Lợi lên làm vua lấy hiệu là Lê Thái Tổ lập ra nhà Hậu Lê.
Cụ được phong chức là Thái Bảo Khê Quận Công Tế Văn Hầu Trụ Quốc, cùng với vợ thứ là Nguyễn Thị Lộ con quan thừa thướng cùng làm quan giữ chức Lễ Nghi Học Sử.
Sau vì triều đình có tính chất tranh giành địa vị chia rẽ bè phái, một số trung thần bị ngược đãi nên cụ xin về Côn Sơn - chi ngại làm quan tại gia. Năm 1440 vua Lê Lợi mất truyền ngôi cho con là Lê Thái Tông lại mời cụ ra làm quan giúp vua Lê Thái Tông. Lúc bấy giờ bọn quyền thần trong cung đang thi nhau tranh giành địa vị. Về hậu cung nhà Vua thì cũng chìm trong các mưu đồ giữa vợ này đánh ghen với vợ kia nên tìm cách hãm hại lẫn nhau. Nhân năm 1442 Lê Thái Tông đi dự duyệt binh ở Hải Dương đi theo có bà Nguyễn Thị Lộ. Xong nhà vua có ghé vào chơi với cụ Nguyễn Trãi. Khi về đến Lệ Chi Viên gọi là trạm Hoàng Cư bên bờ sông Đuống vào nửa đêm vua bị cảm chết đột ngột bấy giờ vua Lê Thái Tông có người vợ thứ 2 tên là Nguyễn Thị Anh người làng Bố tỉnh Thanh Hoá hiện đang thông đồng với một số nịnh thần như Đinh Phúc Thắng…..đã mưu đồ quy cho cụ Nguyễn Trãi cho vợ là Nguyễn Thị Lộ giết vua nên bị kết án chu di tam tộc (nghĩa là giết 3 họ).
Bởi vậy cụ Nguyễn Trãi cùng với bà Nguyễn Thị Lộ bị quy tội cùng bị chết chém (vụ án Lệ Chi Viên), còn người vợ thứ 3 là bà Phạm Thị Mẫn nghe tin bỏ đi trốn thoát nhờ có làng Vậy và Lê Đàm là học trò của cụ cưu mang đã giúp đỡ, lúc đó Bà đã có thai 3 tháng. Sau sinh một người con trai tên là Nguyễn Anh Vũ , lớn thi đậu Hương Cống. Đến 1464 vua Lê Thánh Tông lên ngôi mới minh oan cho cụ Trãi và cụ Nguyễn Anh Vũ được gọi ra làm quan và phong chức Dòng Chi Phủ bèn sưu tầm văn thơ và di cảo của cụ.
Về gia thất
Cụ Nguyễn Trãi có 3 vợ sinh 6 người con.
-Vợ cả không rõ tên sinh được 5 người con.
1.Nguyễn Khuê
2.Nguyễn Ưng
3.Nguyễn Phú
4.Nguyễn Tích
5.Nguyễn Bảng
-Vợ thứ 2 Phạm Thị Mẫn sinh người con
6.Nguyễn Anh Vũ
-Vợ thứ 3 bị chết chém con cái ko rõ
5 người con của người vợ cả là bị chém cùng với cha chỉ còn 1 người là Anh Vũ
B/ Nguyễn Anh Vũ sinh được 8 người con 7 con trai là :
1. Con đầu là tổ Trạc (Tạc) :23 tuổi thi đậu tiến sĩ được bổ dụng làm quan Thừa Chánh Án Bang phục sứ khi đi sứ sang Trung Quốc khi về bị cơn phong ba thuyền đắm chết ngoài biển.
Sinh được một con trai tên là Tư Phiên nay sinh ra con cháu thành một Chi lớn ở thôn Xuân Cúc xã Quỳnh Liên huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ Tĩnh bây giờ
2. Con thứ 2 là Tổ Đán
Sau vụ Lệ Chi Viên ở quê tổ Chi Ngại và Nhị Khê, dòng họ thất tán không còn ai. Nguyễn Anh Vũ cử người con thứ hai là Nguyễn Đán trở về Nhị Khê để khởi dựng lại dòng họ, tu sửa từ đường phần mộ tổ để thờ cúng.
3. con thứ 3 là Tổ Quân (Nguyễn Quân) Người con thứ ba của Anh Vũ là Nguyễn Quân, thi trúng Sùng Văn Quán, được bổ nhiệm làm Thừa tuyên phủ Tĩnh Gia. Hậu duệ là con cháu làng Dự Quần ngày nay
4. Con thứ 4 Tổ Thiêm
3 ông cùng quê chính là Nhị Khê
5.
Con thứ năm là Nguyễn Giáp, về Xuân Dục, lập gia chi họ Xuân Dục, ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên
6. Nguyễn Thung
7. Con thứ 7 Châu Phượng vâng lệnh cha về ở quê ngoại thờ phụng từ đường bên ngoại tại thôn Thị Phú xã Nam Hà huyện Phú Xuyên tỉnh Hà Sơn Bình (Hà Tây) nay cũng thành 1 Chi ở đó
-Về chi trưởng có cháu 7 đời là Nguyễn Thố thi đậu tiến sĩ vào thời vua Thiệu Trị triều Nguyễn nay cũng thành một chi lớn ở thôn Xuân Dục huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên bây giờ.
-Cụ tổ chi trưởng họ ta là Nguyễn Trãi là một vị anh hùng hào kiệt trung minh chính trực tài ba lỗi lạc trung hiếu vẹn toàn ít ai sánh bằng không những như vậy mà còn là một nhà văn hào kiệt xuất vang danh quốc tế và khắp năm châu bốn biển. Được suy tôn là đại văn hào quốc tế. Hàng năm đến tháng 8 quốc tế làm kỷ niệm ngày mất của Ông nên có thơ rằng:
Văn hào dân tộc tiếng cha ông
Lịch sử truyền đi rất lẫy lùng
Từ mệnh quân chung về chính trị
Bình ngô chiến thuật giỏi tâm can
Gậy giơ chính nghĩa chiêu mạnh lệ
Bút múa thiên tài hoạ kiếm cung
Quét sạch quân Minh ra khỏi cõi
Nam nhi trí khí mới anh hùng
III. Sự nghiệp của cụ tổ Nguyễn Nhữ Soạn và các chi nối tiếp từ cụ Nguyễn Đình Lam.
Đời thứ 2
Cụ Nguyễn Nhữ Soạn mất ngày 8/4 là khởi tổ thân sinh ra chúng ta. Cụ Soạn con thứ 6 của cụ Phi Khanh là em thứ 5 của cụ Nguyễn Trãi cùng cha khác mẹ là anh của cụ Nguyễn Nhữ Trạch cùng mẹ cùng cha mẹ là Nhữ Thị Hoàn là vợ thứ 2 của cụ Phi Khanh
Cụ Nguyễn Nhữ Soạn họ cha là Nguyễn họ mẹ là Nhữ nên lấy họ mẹ làm chữ lót thành gọi Nguyễn Nhữ Soạn. Cụ là người khôi ngô tuấn tú có tài thao lược văn võ song toàn vâng lời cha dạy đền nợ nước trả thù nhà quyết một lòng đã sớm tìm đến nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi đứng đầu cùng Ngô Sĩ Liêm làm thư kí, qua thời gian được Lê Lợi tin tưởng đốc chiến. Từ đó cùng với các chiến sĩ xông pha với quân thù trong đó có 8 trận rất oanh liệt có tính chất quyết định cho sự thắng lợi. Theo phả truyền có lần do tên phản thần tên là Ái dẫn đường cho tướng Hoàng Phúc nhà Minh bao vây quân ta phải ẩn sang Ai Lao (nước Lào). Còn cụ vâng lời chúa bảo vệ vua Trần Thiện Khánh và đưa trú ẩn ở thành Ải Long, xong trở lại tiếp tục chiến đấu. Qua chặng đường phò Lê cực kỳ gian khổ, nằm gai, nếm mật, đồng cam cộng khổ, vào sinh ra tử trong suốt thời gian 10 năm, kháng chiến thắng lợi sạch bóng quân thù, nước nhà độc lập, Lê Lợi lên làm vua và nhà Hậu Lê ra đời trị vì đất nước lấy hiệu là Lê Thái Tổ cao Hoàng Đế. Cụ Nguyễn Nhữ Soạn được phong chức Thái Phó Ty Quốc Công.
Sắc phong Bình ngô khai quốc suy tôn trang hiệp mưu dực vận phụ quốc bảo chính minh nghĩa công thành, ngân Thanh vinh lộc Đại phu tả xa kỵ vệ, Đại tướng quân, Quan phục hầu, Nhập thị nội hành khiển, Lĩnh chi nam đạo, Binh dân Bạ tịnh tham chi chính sự, Á vũ hầu, Ty Quận công, tứ tính lê thị, gia tăng thái phó ty quốc công, thường bằng phúc thần, Triệu mưu tả tích vệ quốc yên dân bỉ liệt hàng hưu, Thuần bi duyên huống, Hiển khách hành du, khoan dong bác hậu, Dực vận tán trị, Tỷ dụ đại vương, quốc gia vĩ khí, Xã tắc danh thần, Lam sơn Thủ ứng nghĩa kỳ, Cần sự lạc tòng ư thỉ thạch, thiết khoái danh tăng, Thái thất đằng hưu vĩnh chỉ, Ư sơn hà, Ưu óc ký nhuận hoà ân bao sủng tái kệ cựu điển lễ đương đăng trật nhã gia phong, Hiệu Quốc bảo dân hiền Kiệt Đại Vương.
Xếp vào hàng thứ 41 trên 134 tướng sĩ và được suy tôn
-Thủ ứng nghĩa kỳ (nghĩa là người cầm lá cờ đầu của nghĩa quân lam sơn)
-Bình ngô đại kiến quay Nghiêu Đẩu (thành tích đánh giặc Ngô rõ ràng to lớn như sao Nghiêu sao Đẩu)
-Sinh vi lương tướng tử vi thần (nghĩa là ông tướng cả trung thần chết là một vị thần lớn linh thiêng).
-Công tại tiền triều danh tại sử (nghĩa là công đức được ghi trong sử sách triều đình nhà vua)
-Được tặng quốc tính (lấy họ Lê) nên còn gọi là Lê Soạn.
Nói về gia thất
Cụ nguyễn nhữ soạn có 3 vợ sinh 3 người con
1.Vợ cả gọi là Chính Thất: tên là Nguyễn Thị Tài được tặng là Thái Phu Nhân người làng Lam Sơn tỉnh Thanh Hoá sinh một con trai là Nguyễn Nhữ Trực
2.vợ thứ 2 gọi là Á Thất: tên là Nguyễn Thị Chủy được tặng là Á Phu Nhân sinh hạ một con trai là Nguyễn Nhữ Ngộ.
3. Vợ thứ 3 còn gọi là Trắc Thất tên là Chu Thị Triều được tặng là Trắc Phu Nhân sinh hạ một con trai là Nguyễn Nhữ Lương.
A.Cụ Nguyễn Nhữ Trực
Là con cả của cụ Nguyễn Nhữ Soạn cháu 3 đời của Cụ Ng. Phi Khanh giúp vua Lê Thái Tổ đánh giặc Minh và đuợc phong chức Vương Quận Công quyền binh giám sát đồng binh trưởng sự kiêm Trung thủ thị lam trưởng hàm lâm viện sự tổng chi sứ Nghệ An giỗ 15/10 vợ là Lê Thị Thư người làng Xạ lễ xã Nguyệt Tỉnh huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An sinh hạ 2 người con là:
1. Nguyễn Nhữ Hải.
2. Nguyễn Đình Khuynh.
Ông Nguyễn Đình Hải nay sinh ra con cháu thành một Chi ở làng Phổ Môn xã Cẩm Tràng, huyện Châu Lộc, tỉnh Nghệ An nay là Nghệ Tĩnh.
Nguyễn Đình Khuynh nay sinh ra con cháu thành chi lớn ở 3 xã: Quỳnh Lập, Quỳnh Thạch, Quỳnh Đôi huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An nay là Nghệ Tĩnh.
B.Nguyễn Nhữ Ngộ (còn gọi là Ngụ) làm quan thời nhà Lê Thánh Tông phong chức Kiên Quận Công nay sinh ra con cháu thành một chi lớn ở 2 huyện là:
1. Ở làng Cẩm Nga xã Đông Yên huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hoá
2. Ở làng Lan Trà xã Bình Minh huyện Tỉnh Gia tỉnh Thanh Hoá
C.Nguyễn Nhữ Lương con thứ 3 của cụ Soạn
Làm quan thời vua Lê Thánh Tông được phong chức. Đặc tín thị nội, Phụ quốc hành quân, Tổng thiên ngưu vệ, Trường chi quân sự đại học hầu, Thuỷ thủ tiến tướng công, phong quốc tính: Lê Lương.
Cụ sinh được 1 con trai là Đình Băng làm quan giữ chức Vệ uý, nay cũng ở cũng ở chính quê Cẩm Nga, Đông Yên, Đông Sơn, Thanh Hoá.
Chi trưởng là Nguyễn Đình Lọc cháu đời thứ 20 so với Cụ Phi Khanh đời thứ 19 so với cụ Nhữ Soạn.
Cụ Tổ thân sinh ra dòng họ Nguyễn Đình chúng ta là Nguyễn Nhữ Soạn quả là người khôi ngô tuấn tú trung hiếu vẹn toàn, làm đúng lời cha dạy: “đền nợ nước, trả nợ nhà”, văn võ toàn tài, tới chỗ sáng tránh chỗ mờ, phát huy truyền thống cha anh làm rạng rỡ vẻ vang trang sử được lừng danh nổi tiếng. Con cháu chúng ta ngày nay và muôn đời sau rất tự hào và vinh dự .
Các ông đời trước có thơ vịnh rằng:
Cụ Soạn tổ ta bậc vĩ nhân
Bình Ngô khai quốc vị dân thần
Phi Khanh thân phụ khai khoa bảng
Nguyễn Trãi trưởng huynh đủ võ văn
Con dẹp giặc Chiêm thăng thừa Tướng
Cháu trừ nghịch Mạc hưởng nguyên Huân
Về sau chia phái thêm nhiều mãi
Thế phiệt giòng gia vẻ tấm thân
Tiếp đó còn có câu vịnh rằng:
Ngàn thu còn sử chép gia Thanh
Sự nghiệp tổ tiên của họ mình
Giúp nước đem tài trừ quân giặc
Vì dân quyết trí duyệt quân minh
Núi Lam bia tạc lưu công đức
Nhị khê truyền nối phụ huynh dòng
Quét sạch giặc Ngô ra khỏi nước
Phục thù tuyết sĩ đã nên danh
Nói về gốc tích quê quán
Cụ tổ Nguyễn Nhữ Soạn trước ở làng Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên, tỉnh Thanh Hoá. Đến năm thuận thiên Mậu Thân được thừa chỉ quyền tự nghi lập nghiệp của nhà vua.
Nhân cơ hội đó cụ (Ng. Nhữ Soạn) thấy ở quê ngoại của mẹ đẻ là làng Mê thôn, Xã Cừ nạp sau lại đổi là làng Cẩm Nga xã Mục Nhuận, nay gọi là thôn Cẩm Nga, xã Đông Yên, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Có bãi đất hoang có chùa Văn Đình có địa hình cảnh rất đẹp lúc bình sinh cụ thường đóng quân ở đó. Dân thường gọi là bãi Cồn Đòng nên cụ mới di gia đình về đó đào ao, đắp nền, xây nhà làm nơi cơ chỉ lâu đời. Nếu ta nhìn kĩ mới thấy cảnh đẹp nên thơ (nơi tức là nhà thờ mà anh Phong ở hiện nay).
Cụ có vịnh bài thơ có tính chất phả ký lưu truyền để duy trì ngôi đất này là:
Tòng lại phúc địa tổ thiên sinh
Thiên dĩ sinh chi nhân dĩ thành
Lực sực động Còn Sơn lộ thán
Nguyên nguyên cừ nạp thuỷ lưu Thanh
Lam sơn cổ mạnh do thiên tác
Vân tự kim do dục tú hình
Vĩnh điển hoàng hưu tràng nhuận trạch
Miên miên quá điệt hiển phú vinh
Nhưng theo gia phả của ông Nguyễn Đình Hội đời thứ 18 thuộc chi trưởng tổ là Nguyễn Đình Đễnh để lại thì bài thơ đúng gốc nguyên thuỷ như sau: (đúng gốc)
Tòng lại phúc địa tự thiên sinh
Thiên dĩ sinh chi, nhân dĩ thành
Lực lực Cồn Đòng sơn lộ thán
Nguyên nguyên Cừ Nạp thuỷ lưu Thanh
Nhị khê tính dĩ trung binh khí (linh khí)
Vân tự kim do dục tú hình
Biệt thị Đông Sơn giai cảnh sứ
Tứ thời xuân sắc tiệp phúc vinh
(Đình Hội là cha ông Đình Các, Đình Lợi (Ngiêm Lợi))
Dịch sang thơ đường luật
Từ xưa đất phúc tự trời sinh
Tự trời sinh cũng quyết ở mình
Vòi vọi Côn Đòng đường núi thẳng
Nguồn nguồn Cừ Nạp nước non xanh
Nhị Khê để lại công đức ấy
Vân tự làng này đất đúc linh
Truyền vào Đông Sơn cảnh đẹp tình
Bốn mùa tươi đẹp thật quang vinh.
Dịch sang thơ lục bát
Từ xưa đất phúc tự trời
Tự trời mà cũng do người mới nên
Nước dòng Cự Nạp phát nguyên
Đòng Cồn vòi vọi bên trên có đường
Làng này vân tự vinh quang
Mạch xưa vốn ở Nhị Khê xa miền
Muôn đời nhuận gội ân trên
Cháu con phồn thịnh quang vinh phúc truyền.
Đời thứ 3
Nguyễn Đình Ngộ (trước gọi là Ngụ)
Tự là : Chân Như
Thụy là: Thuần Tín Tướng Công
• (Theo phả sao năm 1988 do ông Nguyễn Đình Hạc đời thứ 18 theo dòng họ Đình bảo ở Lan Trà, huyện Tỉnh Gia thì : tên là Ngộ, tự Thụy Như.)
• Cụ là con thứ 2 của cụ Nhữ Soạn, con của bà vợ 2 Nguyễn Thị Chuỷ sinh ra cụ Ngộ.
• Nối nghiệp cha ông cụ làm quan thời vua Lê Thánh Tông. Có công đánh giặc Chiêm Thành.
• Sắc phong chức: Đôn Nghĩa Hầu, Thăng Phụ Quốc Thượng Tướng Quân, Cẩm Y Vệ, Đô Chỉ Huy Sứ.
• Gia tặng: suy Trung Hiệp Mưu Dực Vận, Bảo Chính Minh Nghĩa, dòng Đức Tá Tích Phụ Quốc Tán Trị Công Thần, nhập Thị Nội Tư Đồ tham dự triều chính Kiên Quận Công.
• Tặng quốc tính: Lê Ngộ (Lê Ngộ giỗ 23/4)
• Cụ thọ 71 tuổi ,vợ là Lê Thị Long giỗ ngày 7/11
• Sinh được 1 con trai là Nguyễn Đình Độ.
Ghi chú : cụ Ngộ là con thứ 2 của cụ Nhữ Soạn tại sao lại được làm trưởng thờ phụng tông đường?
Theo các cụ truyền rằng: khi xưa cụ soạn mất báo tin cho cụ Nhữ Trực là con cả đang làm quan ở tỉnh Nghệ An, lúc đó đang đi công tác. Sau tang lễ mới về dự nhưng lại không mang khăn tang, nên bị quy tội là bất hiếu vì vậy nên lập cho con thứ là Nhữ Ngộ lên làm trưởng.
Con cháu có thơ vịnh rằng:
Dòng nhà thế phiệt dấu châm anh
Cụ tổ ba đời của họ mình
Giúp nước trị bình phò Thánh Đế
Trừ nam hộ giá dẹp Chiêm Thành
Quan phong thượng tướng quyền thân trạng
Chức tướng quận công vị cực vinh.
Con cháu đời truyền hầu tước tập
Phả văn chép để lại rành rành
Đời thứ 4:
Cụ tổ đời thứ tư họ ta là Nguyễn Đình Độ
Tự là: Tâm Giác (làm nghề thầy tu) thuỵ Thuần Trung (Trung Nghị)? Được hưởng công thần của cha ông nên có sắc phong: Bình Ngô Khai Quốc Công Thần phụng chức là Thiên Lộc Hầu. Hưởng thọ 61 tuổi giỗ 23/1
Vợ là: Chư Thị Nhiệm. giỗ 5/5 thọ 83 tuổi
Sinh được 1 con trai là Nguyễn Đình Lượng,
Đời thứ 5
Cụ tổ đời thứ 5 là Nguyễn Đình Lượng
Cụ được hưởng lộc Bình Ngô Khai Quốc Công thần phụng, sắc phong Dương Xuyên Hầu Nguyễn Quý Công. Tự Tâm Thiện; húy Đình Lượng phủ quân. Hưởng thọ 63 tuổi giỗ 22/6
Vợ là Lê Thị Hành. Giỗ 15/7
Sinh một con trai là Nguyễn Đình Khế.
Đời thứ 6
Tổ đời thứ 6 của họ ta là Nguyễn Đình Khế
Tự : Bản Tính
Thụy : Thuần Đức
Cụ làm quan thời Lê Trưng Vương có công phò Lê diệt Mạc chức phong Bình Mạc Đại Tướng Quân tuyên Lực Quận Công, thiếu úy Khanh Văn Hầu thọ 81 tuổi, giỗ ngày 19/11 mậu ngọ.
Vợ là Lê Thị Sách giỗ ngày 22/1 sinh được 2 người con là:
Đời thứ 7
Tổ đời thứ 7 của họ ta là Nguyễn Đình Uyên
Tự: Huyền Ân
Hiệu : Chính
Được vinh dự hưởng lộc Bình Ngô Khai Quốc Công Thần phụng trưởng chi. Sắc phong Văn Xuyên Hầu Tử Đinh Uyên làm nghề pháp sư thọ 78 tuổi giỗ 6/12 canh thìn, ông lấy 2 vợ:
- Trước lấy bà Lê Thị Yên sinh được 1 con trai là Đình Phượng (bị tật) sau không hoà thuận bỏ nhau.
- Cụ lại lấy bà Lê Thị Phạn giỗ 27/4 sinh được 1 người con trai là Nguyễn Đình Cấp.
Đời thứ 8
Cụ tổ đời thứ 8 họ ta là: Nguyễn Đình Cấp
Tự : Chân Lương
Thụy : Minh Bảo
Hiệu : Minh Bảo Tiên Sinh
Làm nghề thầy tu. Được vinh dự hưởng lộc Bình Ngô Khai Quốc Công Thần tôn Trưởng chi.
Sắc phong Văn Bá Tử
Cụ là lưu tâm thuyền đào pháp môn tế độ sắc đạo thuyền sư, thọ 78 tuổi giỗ 23/8
Vợ là Nguyễn Thị Khơm giỗ 26/2 thọ 69 tuổi sinh được 4 người con:
1)Nguyễn Đình Thông trưởng chi chúng ta bây giờ
2)Nguyễn Đình Đạt (chỉ vô tự)
3)Nguyễn Đình Đạo phân chi ở nhà cụ Nhược bây giờ
4)Nguyễn Đình Vịnh (chỉ vô tự)
Đời thứ 9
Cụ Nguyễn Đình Thông là cụ tổ 9 đời của họ ta.
Được vinh dự hưởng lộc: Bình Ngô Khai Quốc Công Thần, tôn Trưởng chi .
Sắc phong đắc thị nội nhung
Chức lễ Thọ Nam Đình Thông:giỗ 25/9
Tự: Huệ Khánh, hiệu là:
Minh Bảo Tiên Sinh. Thụy là :Minh Bảo
Thụy: chân quang phủ quân
Có 2 vợ: vợ cả Lê Thị Quyện giỗ 12/1 sinh 2 con
1)trưởng là: Nguyễn Đình Phẩm ( vô tự)
2) Nguyễn Đình Đễnh ở chi Anh Phong bây giờ
-Vợ thứ 2 là : Lê Thị Bố ở làng Quê Sơn xã Phùng Cầu huyện Thiệu Hoá tỉnh Thanh Hoá.giỗ 14/2,sinh được 4 người con trai là:
3) Nguyễn Đình Nha (vô tự)
4) Nguyễn Đình Tích sinh được 2 con rồi cũng vô tự
5) Nguyễn Đình Bảo nay chia ra chi ở làng Trà
6) Nguyễn Đình Vậy sinh ra chi ở ông Thiềng Cẩm Nga
Đời thứ 10
Tổ đời thứ 10 của họ ta là: Nguyễn Đình Vậy.
Cụ Nguyễn Đình Vậy, nối tiếp cha ông làm quan thời nhà Lê Trung Khương. Chức phong Tuyên Lực Quận Công. Sắc thế nào không rõ, vì năm 1954 nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm thứ 10 phát động cuộc đấu tranh cải cách ruộng đất, trưởng là Nguyễn Đình Kiêng nhưng đã chết còn vợ và con trai là Nguyễn Đình Thiềng bị quy là địa chủ, lúc bấy giờ ruộng đất nhà thờ, dinh cơ bị tịch thu, và chia cho bần cố nông sử dụng. Gia đình xuất ngoại.
Dựa thời cơ này, có binh cho anh Nguyễn Đình Quy là cháu 8 đời vào ở, có ngụ ý bên ngoài là chia cho bần cố nông, bên trong là con cháu vào ở để bảo vệ thờ phụng tổ tiên. Vì ông Quy cùng ở một cánh trưởng. Nếu ông Thường mất thì ông Quy thay trưởng.
Nhưng không ngờ ông Quy chí hèn phận mọn sinh nhai thiếu thốn đem bán 3 tuồng cánh cửa nhà thờ cho 1 người ở bản quán là Nguyễn Tuyết, vì vậy nhà thờ mất mát ư chệ, đến năm 1957 sửa sai mới được trả lại, ông trưởng trở về nhà thờ mới được sửa sang chu đáo nghiêm trang.
Vợ là mất ngày:
Sinh được 1 người con trai tên là: Nguyễn Đình Trọng
Đời thứ 11
Cụ Đình Trọng là tổ 11 đời sinh ra chi cụ Lam
Cụ lấy bà: mất ngày:
Sinh hạ được 6 người con trai.
1)Nguyễn Đình Ngân (ông Thiềng Thờ)
2)Nguyễn Đình Đợi (ông Thiềng Thờ)
3)Nguyễn Đình Nghị (ông Thiềng Thờ)
4)Nguyễn Đình Hựu ở ông Hải Đội thờ.
5)Nguyễn Đình Hy (ông Cấm thờ)
6)Nguyễn Đình Hiệp(ông Cấm thờ)
D. CHI TIẾT CÁC CHI TỪ ĐỜI THỨ 11 (NGUYỄN ĐÌNH TRỌNG)
D.1 CÁC CHI TỪ CỤ NGUYỄN ĐÌNH NGÂN (Chưa có tư liệu chi tiết)
D.2 CỤ NGUYỄN ĐÌNH NGHỊ (Chưa có tư liệu chi tiết)
D.3 NGUYỄN ĐÌNH HỰU (ĐỜI 12) (Chưa có tư liệu chi tiết)
D.4 NGUYỄN ĐÌNH HY (Chưa có tư liệu chi tiết)
D.5 NGUYỄN ĐÌNH HIỆP (Chưa có tư liệu chi tiết)
Phần D nội dung chính là nói về các chi bắt đầu từ cụ Nguyễn Đình Trọng (đời thứ 11). Do hiện tại chỉ có tư liệu cụ Nguyễn Đình Lam nên mới cập nhật phần cụ Lam trứơc, các chi khác sau khi có tư liệu sẽ bổ sung sau
D.3 CỤ NGUYỄN ĐÌNH HỰU
Đời thứ 12:
Cụ tổ 12 đời phân chi cấp 4 là Nguyễn Đình Hựu, sinh ra chi chính ở Đông Yên – Đông Sơn giờ.
Cụ Nguyễn Đình Hựu là một nhà nho đức hậu. Thi đậu Sinh đồ, nên ta còn gọi là ông Đồ. Hưng lệ, tề gia, phú quý hiển vinh, nhà thờ nghiêm túc, năm 1954 cải cách ruộng đất, trưởng chi là Nguyễn Đình Thập cháu 6 đời đã chết còn vợ là Nguy Thị Linh bị quy là địa chủ, gia đình tài sản tịch thu chia cho nông dân, gia đình tứ tán ra ngoài vùng.
Đến năm 1956 sửa sai mới được trả lại toàn bộ gia tài gia đình trở về nhà cũ, anh em các Cụ trong chi đem lễ xôi thịt đến để lập lại rường thờ, đến thấy nhà thờ đổ nát nên giận dữ cãi nhau với người ở trước kia.
Lúc bây giờ có Nguyễn Thọ Kim phó chủ tịch xã và Nguyễn Tuyết chính quyển xóm. Hai anh này đều là cháu rể 8 đời của cụ Hựu. Đến chấn an các cụ trong chi mọi người mới yên.
Cụ mất ngày 12/12. Lấy 2 vợ sinh được 3 con trai.
1. - Bà vợ Cả: giỗ ngày
Sinh dược 02 con: Nguyễn Đình Vượng ở nhà ông Đợi
Nguyễn Đình Giao ( vô tự)
2. - Bà vợ 2 là: giỗ ngày
Sinh đươc 01 con trai: Nguyễn Đình Hội ở nhà ông Hớn.
Con cháu có thơ rằng.
Đình Hựu cụ Tổ sinh chi ta
Cháu mười hai đời giống nho gia
Kinh sử dùi mài chờ tới khoa đệ.
Thi cử không quên nối nghiệp nhà.
Sinh đồ thi đạt tại trường khoa.
Rạng rỡ Nguyễn tộc ở Cẩm nga.
Thủy tổ đời đời nhớ ơn cụ
Nên vẫn phát triển mãi mãi ra.
Đời thứ 13:
Cụ Nguyễn Đình Vượng là cháu 13 đời tổ sinh chi ta. Cụ rất hiền hoà phong nhã, là bậc thông nho
Cụ mất ngày 16/5.
Vợ là: Lê Thị Thuận giỗ 9/5 sinh 4 con trai.
- Nguyễn Đình Phong con trưởng ở nhà ông Hải Đội thờ.
- Nguyễn Đình Điềm ở nhà ông Văn thờ.
- Nguyễn Đình Lam ở nhà anh Mược thờ.
- Nguyễn Đình Đỉnh nay con 1 cháu ngoại 6 đời là Nguyễn Hữu Cải.
Đời thứ 14:
14.1/ Nguyễn Đình Phong : Chưa có tư liệu nên bổ sung sau
14.2/ Nguyễn Đình Điềm
: Chưa có tư liệu nên bổ sung sau
14.3/ Nguyễn Đình Lam : (Thân thế sự nghiệp của cụ Lam và sau đó chia ra 3 mục A1; A2; A3)
A1. : Con thứ 1 của cụ Lam là Nguyễn Đình Mạo
A2. : Con thứ 2 của cụ Lam là Nguyễn Đình Tể
A3. : Con thứ 3 của Cụ Lam là: Nguyễn Đình Cường.
Cụ
Nguyễn Đình Lam là : Cháu đời 14 của Cụ Phi Khanh.
Cháu đời thứ 13 của cụ Nhữ Soạn.
Và là con cụ Nguyễn Đình Vượng
Cháu nội các cụ Đình Hựu.
Gọi cụ Nguyễn Đình Hội ở nhà ông Mây Hớn là chú ruột
Năm 1954 do cuộc cải cách ruộng đất do đó phả ký của dòng họ ở nhà ông Thiềng bị thất lạc nên tiểu sử của cụ chúng ta là người hậu sinh không nắm được ở đây chỉ nghe các cụ thời trước nói chuyện truyền miệng thì cụ Đình Lam là người khôi ngô, hiền hoà dáng điệu thư sinh trung hiếu. Khi ông nội mất (tức là Cụ Hựu) có gửi Cụ cho người bạn là tú tài ở Quảng Xương để ăn học, Cụ đã học hết bộ kinh thi (là kinh thư, kinh thi, kinh dịch) đã có đi thi nhưng chưa đạt, sau về không hiểu có làm gì hay không nhưng lại được miễn trừ tập sinh chỉ ở nhà dạy năm ba con cháu trong nhà để học cho đỡ buồn, giải trí, người rất hay mê đọc sách, rất có uy tín. Ăn ở, hùn hạp, bàn bạc công việc trong thôn ngoài xã có tín nhiệm người người tôn trọng kính mến.
Cụ mất ngày 8/4 Vợ là: Lê Thị Cua
Con ông chi tổng ở xóm Doãn xã Mục Nhuận nay là thuộc người nhà ông Phương Lâu, ông Cửu sau ở thôn Doãn xã Đông Yên, Thanh hoá ngày nay
Bà cụ mất ngày 26/8
Sinh hạ được 3 người con:
1/ con trưởng: Nguyễn Đình Mạo
2/ con thứ 2: Nguyễn Đình Tể giỗ 27/8
3/ con thứ 3: Nguyễn Đình Cường giỗ 10/4
Con cháu suy tôn cụ nên có bài thơ vịnh rằng:
Phân chi thứ sáu tổ chúng ta.
Cụ Lam nối nghiệp dòng nho giáo
Đèn sách tam kinh cụ đã thông
Thi cử không quên cha ông trước
Trong thôn ngoài xã bậc anh hào.
Nhân hậu hiền hoà nối gia phong
Cụ con cháu ngày đông đúc
Phú quý khang ninh chẳng có hèn
A1. Cụ Nguyễn Đình Mạo
Đời thứ 15: Nguyễn đình Mạo (con cả của cụ Lam)
Cụ mất ngày:
Vợ là: mất ngày
Sinh được người con trai :
1/ Nguyễn Đình Nhật, giỗ
2/ Nguyễn Đình Tổ, giổ 9/9
3/ Nguyễn Đình Tải, giỗ
Đời thứ 16
16.1 Nguyễn Đình Nhật ( con cụ Mạo) sinh ra được một người con trai là: Nguyễn Đình Chỉnh theo truyền miệng: khi sinh ra ông Chỉnh lên 5 tuổi thì cụ Nhật chết ngày ….
Sau thời gian thì bà vợ bỏ đi tái giá, khi đi bỏ ông Chỉnh vào buồng nhốt suốt 1 ngày sau mới biết thì cụ Tô là chú ruột. Đem về nuôi lúc đó anh em súm nhau nuôi ông Chỉnh mãi khi trưởng thành xây dựng gia đình mới tự lập.
Còn bà vợ ông Nhật tên là gì ngừời nhà ai không rõ
16.2Nguyễn Đình Tô đời thứ 16 và là con thứ 2 ông Mạo. Ông Tô giỗ ngày 9/9 . Vợ là Nguyễn Thị Gái giỗ ngày 4/4, sinh được 3 trai 1 gái
- Nguyễn Đình Tường, giỗ 2/3
- Nguyễn Đình Phụng, giỗ
- Nguyễn Đình Lâm, giỗ (vô tự)
- Gái là Nguyễn thị Gáy cha anh lấy anh Lỗi ở Mau xá là Đông Minh
16.3 Nguyễn Đình Tải: đời thứ 16 là con thứ 3 ông Mạo, ông này không có con chết sớm, nay ông Ngạn thờ. Giỗ ngày.
Đời thứ 17
17.1Nguyễn Đình Chỉnh (con ông Nhật) giỗ 2/7
Vợ là giỗ ngày 01/2
Sinh hạ được 3 trai 1 gái là Nguyễn Thị Káy, con ông Tuất
1. Nguyễn Đình Kếnh giỗ ngày 12/12
2. Nguyễn Đình Vĩnh giỗ ngày 21/11
3. Nguyễn Đình Đềnh giỗ ngày 4/9
4. Con gái : Nguyễn Thị Cán Lấy ông Tùng ở làng Bằng (năm Tuất)
17.2 Nguyễn Đình Tường đời thứ 17 con cả ông Tô. Ông Trường hay đi đánh bạc, bài. Có chứng đau bụng kinh niên có lần đau quá lên cổng đá của làng ngoài trước nhà thắt cổ chết. Hai trong số 3 anh em phải bí mật chôn.
2 Vợ sinh 4 người con gái
Bà vợ cả: Nguyễn Thị Đàn giỗ 16/11 người nhà ông Hàng Chông ở Làng Doãn ( nay gọi là Tuất hòng).
Sinh 1 gái là Nguyễn Thị Hường lấy chồng ở Đu gọi là Thiệu Toán huyện Đông sơn bây giờ.
Bà vợ 2: Lê Thị Thảo giỗ 18/5
Sinh được 3 gái là:
- Nguyễn thị Mọc lấy ông Lê văn Hỡi ở làng Cẩm.
- Nguyễn Thị Mạc lấy ông Tộ ở làng Bằng.
- Nguyễn thị Lý lấy ông Đồng Văn Thiếp ở chợ Mục. Đến năm 1945 bà Thảo nuôi 1 người con nuôi là Đình Hùng. Ông Đình Hùng lấy vợ là Lê Thị Mỹ (chị anh Hán xóm Doãn bây giờ).
17.3 Nguyễn Đình Phụng đời thứ 17 con thứ 2 ông Tô. Nguyễn Đình Phụng giỗ ngày:
Vợ là: Nguyễn Thị Đang người nhà ông Thênh ở làng Bằng giỗ ngày 4/6, sinh 3 trai 1 gái là
1. Nguyễn Đình Dỡn (1) giỗ 18/8
2. Nguyễn Đình Lậu (3) giỗ 9/5
3. Nguyễn Đình Ngạn (4) giỗ 8/9
4. Nguyễn thị Toàn (2) lấy ông Mão làng Bằng.
17.4 Nguyễn Đình Lân
đời thứ 17 là con thứ 3 ông Tô ông vô tự (không nói gì thêm)
Đời thứ 18:
18.1. Ông Nguyễn Đình Kếnh (con đầu của ông Chỉnh giỗ 12/12
Bị mẹ mất sớm, cha thay nội chợ, thiếu thốn nên thất học sau lại cũng con đông, nhà trưởng nên cũng thiếu ăn phải chuyên làm nghề hàng sáo và lái buôn thuê.
Ông Kếnh có 2 vợ: vợ cả là: Lê Thị Thê người nhà ông Kiều Minh Hàng Doãn, sau gọi nhà ông Mục Nhâm
Chưa có con bị chết trẻ. Sau lại lấy bà kế năm là Nguyễn Thị Khoá, người làng Vức xã Tân Khạng, Huyện Nông Cống , giỗ ngày 28/4
Sinh được 5 trai 02 gái là:
1/ Nguyễn Đình Dược, giỗ ngày 14/12
2/ Nguyễn Đình Sược, giỗ 13/7
3/ Nguyễn Đình Thắng, giỗ ngày 01/05 nhuần năm canh ngọ (1990)
4/ Nguyễn Đình Nhạc, giỗ 8/4
7/ Nguyễn Đình Sáu
5/ Nguyễn thị Dậu lấy ông Khánh ở làng Trừơng
6/ Nguyễn Thị Năm lấy Nguyễn Tất Lô ở Tân Khạng huyện Nông Cống. Từ năm 1985 chuyển về ở quê mẹ. Làng Cẩm, xã Đông Yên, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá.
18.2. Nguyễn Đình Vĩnh
Đời thứ 18 con thứ 2 của ông Chỉnh giỗ ngày 21/11 . Vợ là Lê Thị Đức là cô ruột ông Hợi thôn Cẩm Nga giỗ 21/3
Sinh được 7 người con gái :
- Nguyễn Thị Mồm lấy chồng Thụ Kim ở làng Bằng.
- Nguyễn Thị Kếch lấy ông Giang ở làng Mau Xá
- Nguyễn Thị Kích lấy Nguyễn Tuyết ở làng Cẩm Nga
- Nguyễn Thị Bích lấy anh Tranh ở làng Mau xá.
- Nguyễn Thị Ngọc lấy ông Ký ở Nam ngạn Hàm Rồng
- Nguyễn Thị Len lấy ông Thanh ở làng Mau xá.
- Nguyễn Thị Lẽn làm nghề chụp ảnh.
Ông Vĩnh không có con trai khi chết có lập cho Nguyễn Đình Nhạc con thứ 4 ông Chếch, sau thời gian bà vợ ông Đức là vợ ông Vĩnh và 1 số con gái lại lập Cao Thị Bích là con gái thứ 4 con ông Vĩnh thờ nên chị Bích lấy anh Thanh lại trở về quê ngoại để thờ phụng cha mẹ.
18.3. Nguyễn Đình Đễnh Đời thứ 18 con thứ 3 ông Chỉnh lấy bà Lê Thị Lam ở làng Ngạc lau xã Đông Thịnh sinh được 1 con gái là thị Cẩm rồi chết cả 2 cha con còn bà Lam trở về tái giá.
18.4 Nguyễn Đình Dỡn Đời thứ 18 con trưởng của ông Phụng. Ông có bệnh đau bụng kinh niên, nghề buôn thuốc bắc. Lúc chưa khởi nghĩa trước năm 1945 làm hương bạ. Giỗ ngày 18/8. Vợ là Nguyễn thị Cựu người nhà ông Cựu Tôn ở làng Bằng. Sinh 2 con gái: Nguyễn thị Bảo
Nguyễn thị Vệ lấy chồng xa
18.5 Nguyễn Đình Lậu đời thứ 18 con thứ 2 ông Phụng. Vợ là: Lê thị Sử là chị ông Năm Sự xóm Bằng. Chưa có con ông Lậu chết 9/5 bà Sử trở về tái gía nay ông Ngạn là em thờ phụng.
18.6 /Nguyễn Đình Ngạn đời thứ 18 con thứ 3 ông Phụng. Lấy bà Nguyễn Thị Sinh người nhà ông Long Khăm làng Bằng giỗ ngày 12/11 sinh 2 trai 2 gái
1. Nguyễn Thị Ý
2. Nguyễn Đình Bình
3. Nguyễn Đình Luận
4. Nguyễn thị Thứ.
18.7 Nguyễn Đình Hùng đời thứ 18 (là con nuôi ) sinh được 2 trai 4 gái là
1. Ng. Đình Tiến (3)
2. Ng. Đình Chức (5)
3. Ng. Thị Vụ (6)
4. Ng. Thị Phát (1)
5. Ng. thị Biển (2)
6. Ng. Thị Quyến (4)
1. Đình Tiến đi bộ đội chống Mỹ hoàn thành trở về. Vợ là Nguyễn Thị Huê ở
làng Mau xá. Sinh được 2 gái : Thị Hằng
: Thị Vân
Hiện nay ông Hùng thờ phụng bà Nguyễn thị Thảo
Đời thứ 19:
19.1 Nguyễn Đình Dược cháu đời thứ 19 con trưởng ông Kếnh, vợ là Nguyễn Thị Bòng con cụ Bàng Thông ở làng Bằng. Sinh được 1 con trai là : Nguyễn Đình Bảy. Rồi ông Dược chết thì cháu Bảy còn trong thai mẹ. Sau sinh ra lên 7 tuổi thì bà Bòng đi tái giá (lấy ông Nguyễn Trung Nhi nay gọi là nhà ông Bình Mơ cùng thôn Cẩm Nga)
Còn Đình Bảy ở với ông nội là Đình Kếnh lớn lên đi bộ đội chống Mỹ cứu nước bị hy sinh được phong liệt sĩ.
Do đó nay anh Nguyễn Đình Dược con thứ 2 ông Kếnh lên thay trưởng.
19.2 Nguyễn Đình Sược: cháu đời 19 con thứ 2 ông Kếnh
Trước đó nhà nghèo lại con thứ nên thất học, lớn lên chuyên làm nghề thợ mộc, thổi kèn đám ma người khôi ngô có tài hoa riêng.
Vợ: trước đây lấy chị Nguyễn Thị Niên con ông Minh Nghĩa ở làng Bằng và vợ chồng không hoà thuận bỏ nhau. Sau lấy bà Nguyễn Thi Lục người ở huyện Ý Yên xã: làng tỉnh Hà Nam Ninh
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1948-1949 bà Lục ở vùng địch chiếm phải tản cư vào chợ Mục rồi lấy nhau.
Sinh được 4 con trai 4 con gái là:
1. Nguyễn Đình Hải
2. Nguyễn Đình Dương chết năm 1998
3. Nguyễn Đình Thịnh
4. Nguyễn Đình Hòa
4 gái:
1. Thị Mược: lấy chồng ở Huyện Quảng Xương
2. Thị Phược: lấy anh Nệnh cũng ở cùng bản quán.
4. Thị Chinh: lấy anh Cử ở làng Doãn.
3. Thị Từ: lấy anh ở làng Doãn
19.3 Nguyễn Đình Thắng
cháu đời 20 con thứ 3 ông Kếnh. Trước 1950 đi bộ đội chống Pháp, sau chuyển nghành làm nghề y tế. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt nam.
Đến năm 1983 về nghỉ chế độ hưu trí tham gia làm bí thư khi bộ Đảng đội 4 Cẩm Nga. Đến năm 1988 chuyển cả gia đình vào ở với con là Nguyễn Đình Thành ở tỉnh Cần Thơ.
Được tặng Huân Chương Kháng Chiến Hạng Nhất. Và Huân Chương Kháng Chiến Hạng 2
Đến 6/1990 tức là 1/5 nhuần Canh Ngọ bị bệnh chết tại Cần Thơ Miền Nam thi hài thiêu tại nhà chùa.
Vợ là Nguyễn thị Dư em ông Triệu ở làng Trường.
Sinh được 3 trai 4 gái là
- Nguyễn Đình Thành (1)
- Nguyễn đình Thăng (2)
- Nguyễn đình Vinh (5)
- Nguyễn Thị Long (3)
- Nguyễn Thị Mai (4)
- Nguyễn Thị Hoa (6)
- Nguyễn Thị Nụ (7)
19.4 Nguyễn Đình Nhạc cháu đời thứ 19 con thứ ông Kếnh đi bộ đội chống Pháp, sau vê tham gia Đảng uỷ viên Đảng bộ xã đông yên rồi đi cán bộ lâm nghiệp tỉnh Thanh hoá sau về hưởng chế độ mất sức. Vì bệnh đau bụng chết 8/4 (năm 1974). Vợ là Nguyễn Thị Én sinh được 3 trai 1 gái là:
1. Nguyễn Đình Ca
2. Nguyễn Đình Thuỷ
3. Nguyễn Đình Quân
4. Nguyễn Thị Nhung ( con gái)
19.5 Nguyễn Đình Sáu: Đời thứ 19 con trai thứ 5 ông Kếnh. Đi bộ đội chống Mỹ phong trung uý được tặng 6 huân chương trong đó có 1 huân chương chiến công. Sau về làm chấp hành Đảng uỷ phụ trách phó chủ tịch UBND xã Đông Yên sau hoà bình lại được hưởng huân chương kháng chiến hạng nhất.
-Vợ là Nguyễn thị Doãn con ông Trùng Cẫy làng Bằng. Sinh 3 trai 1 gái là
1. Nguyễn Đình Thái (1)
2. Nguyễn Đình Ba (3)
3. Nguyễn Đình Bốn (4)
4. Nguyễn Thị Lan (2)
19.6 Nguyễn Đình Bình: Con trưởng ông Ngạn- Đời thứ 19.
Anh Bình đi bộ đội hoàn thành nhiệm vụ trở về lấy vợ: Đầu tiên lấy chị:Nguyễn Thị Thường con ông: Bồi Tân Thành sinh được gái là: Thị Thức, rồi bỏ nhau. Song lại lấy lần thứ hai là:Lê Thị Hằng người làng Đồng Pho, xã Đông Hoà sinh 1 con là:
Nguyễn Thị Nga(1990).
Còn con gái đầu ông Ngạn là: Nguyễn Thị Ý, lấy con ông Hương ở làng Trường.
19.7 Nguyễn Đình Luận: Con thứ ông Ngạn- Đời thứ 19, không thấy trong phả ghi chép gì.
Đời thứ 20
20.1 Nguyễn Đình Bảy cháu đời thứ 20 con ông Dược. Ở với ông nội là Đình Kếnh lớn lên đi bộ đội chống Mỹ cứu nước bị hy sinh được phong liệt sĩ.
20.2 Nguyễn Đình Hải Chánh 20 đời con ông Xược sẽ kế trưởng của chi cụ Lam. Có đi bộ đội lái xe được phong Thiếu tá khi về hưu.
Vợ là Nguyễn Thị Thanh con ông Ngọ ở làng Bằng
Sinh được 2 trai 2 gái là : (đến năm 1990)
3. Nguyễn Đình Âu
4. Nguyễn Đình Nam Đời thứ 21
1. Nguyễn Thị Thuý
2. Nguyễn Thị Vân
20.3 Nguyễn Đình Dương đời 20 con thứ 2 ông Xược. Đi bộ đội chống Mỹ hoàn thành nhiệm vụ trở về xây dựng gia đình. Vợ là: Lê Thị Liêm con ông Thập ở làng Trường. Sinh được 3 con gái (1990)
+ Nguyễn Thị Hiệp
+ Nguyễn thị Loan
+ Nguyễn thị Đài
20.4 Nguyễn đình Thịnh đời 20 con thứ 3 ông Xược. Đi bộ đội chống Mỹ làm tròn nghĩa vụ trở về xây dựng gia đình. Vợ là: Lê thị Hằng con ông Thành Cao làng Doãn. Sinh được 1 trai (1990)
Nguyễn đình Sĩ
20.5 Nguyễn Đình Hoà đời 20 con trai thứ 4 của ông Xược. Hoà cũng đi bộ đội chống Mỹ tròn nghĩa vụ trở về gia đình. Vợ cưói 10/1989 cùng tên Lê thị Hằng ở làng Trường.
20.6 Nguyễn Đình Thành
cháu đời thứ 20 con đầu ông Thắng. Là cán bộ trong quân đội hàm Trung tá nghỉ hưu năm 2001. Đảng viên ĐCSVN.
Tham gia bộ đội giải phóng miền Nam năm 1975. Từ 1979- 1993 là thuyền trưởng tàu hải quân. Từ 1993-2001 là sĩ quan tham mưu vùng 5 Hải quân, hiện đang sinh sống tại Tp. HCM. Có vợ là Vũ Thị Hồng làm kế toán. Sinh được 3 người con
.
1. Nguyễn Trường Giang (1987).
2. Nguyễn thi Phương Thanh (1991).
3. Nguyễn thị Thanh Hương (1984).
20.7 Nguyễn Đình Thăng :
cháu đời thứ 20 con thứ 2 ông Thắng, Công An hiện đang sống tại tp. Thanh Hóa, vợ là Quách thị Nguyệt buôn bán. Sinh được 3 người con gái.
20.8 Nguyễn Đình Vinh:
cháu đời thứ 20 con thứ 3 ông Thắng, Bộ đội Hải quân, hiện đang sinh sống tại tp.Cần Thơ, vợ là Lê thị Nhung, buôn bán. Sinh được 3 người con gái.
20.a Nguyễn thị Long :
Có chồng là Nguyễn Trung Hùng sinh được 2 con trai là Tuấn, Tú (đang sống tại Thanh hóa). Chết năm 1985
20.b Nguyễn thị Mai:
Có chồng là Nguyễn Thế Tùng sinh được 2 con gái là Lan, Bảo (đang sống tại tp.HCM)
20.c Nguyễn thị Hoa :
Có chồng là Nguyễn Văn Hiệu sinh được 3 con, 2 gái và 1 trai là Tuyết, Hà, Huy (đang sống tại tp.HCM)
20.d Nguyễn thị Nụ :
có chồng là Trần Văn Đồng là PGĐ XNK thủy sản Capit Cần Thơ, sinh được 1 người con trai tên Dũng (hiện đang ở Cẩn Thơ)
20.9 Nguyễn Đình Ca đời thứ 20 con ông Nhạc. Vợ là : Nguyễn Thị Thoa con ông Thiềng làng Bằng. Sinh được 02 con gái (1990)
+ Nguyễn Thị Thuận
+ Nguyễn Thị Tiện
20.10 Nguyễn Đình Thủy:
Cháu đời thứ 20 là con thứ 2 ông Nhạc (không có ghi gì trong gia phả).
20.11 Nguyễn Đình Quân:
Cháu đời thứ 20 là con thứ 3 ông Nhạc (không có ghi gì trong gia phả).
20.12Nguyễn Đình Thái con đầu ông Sáu ở đời thứ 20. Đi bộ đội chống Mỹ là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Năm 1989 được đi học ở Liên Xô. Vợ là Lê Thị Hiên con ông Nở ở Tân Thành. Sinh được 2 trai là:
1. Nguyễn Đình Bình
2. Nguyễn Đình An
A.2 NGUYỄN ĐÌNH TỂ:
Đời thứ 15:
Nguyễn Đình Tể: Con thứ hai của cụ Lam(ông Tể là khởi tổ ở Cành ông Đình Ninh.Còn gọi là ông Nghềnh hay ông Mục Bòng).
Cụ giỗ ngày: 27/8.
Vợ là: Lê Thị Phiến giỗ 2/3.
Sinh được 3 trai 1 gái là;
1. Nguyễn Thị Vức lấy chồng về lối nhà ông Xuyến Nhi.
2. Nguyễn Đình Dán giỗ ngày:1 /3
3. Nguyễn Đình Doãn giỗ : 6 /2
4. Nguyễn Đình Chợp giỗ : 26/8
Đời thứ 16:
16.1 Nguyễn Đình Dán con trưởng cụ Tể đời thứ 16.
Cụ Dán giỗ ngày 01/03
Vợ là Nguyễn Thị Phược giỗ ngày 02/04. Người nhà ông bạ Hoè (ba Nung) làng Doãn. Sinh được 1 con trai và 2 con gái là:
Nguyễn Thị Tấy lấy chồng về lối nhà ông Tuyến làng Bằng.
Nguyễn Thị Thành lấy chồng ở làng Ngọc Tích xã Đông Thạnh.
Nguyễn Đình Ninh giỗ ngày 03/11 (chết ngày 03/11 năm Mậu Thìn tức tháng 02/1988)
16.2 Nguyễn Đình Doãn
Đời thứ 16 con thứ 2 cụ Tể. Cụ Doãn giỗ ngày 06/02, chồng tên là Dán, vợ là Lê Thị Láng giỗ ngày 26/04, sinh được một con trai là Nguyễn Đình Dị.
16.3 Nguyễn Đình Chợp: cháu đời 16 con thứ 3 của cụ Tể.
Cụ Chợp giỗ ngày 26/08. Vợ là Lê Thị Khoe giỗ ngày 12/07, sinh được 1 trai 1 gái:
a)Nguyễn thị Huấn.
b)Nguyễn Đình Tuân. Giỗ ngày 24/10.
Theo truyền miệng của bà Nguyễn Thị Huấn con gái cụ Chợp, trước lấy ông bếp Đông (tức là cha ông Đông Tỉnh làng Bằng bây giờ) sau vì vụ mất trộm tiền nghi đổ cho bà Huấn lấy nên bà tức giận rời làng bỏ đi, bà lên mía Bái Thượng lấy chồng, nhà chồng theo Đạo Thiên Chúa, nhưng hàng năm vẫn có về thăm quê và theo giỗ tết đầy đủ.
Đời thứ 17:
17.1 Nguyễn Đình Ninh:: thọ 86 tuổi con trưởng cụ Dán giỗ ngày 03/11
Ông Ninh kinh tế thời Pháp thuộc vào loại phú nông trước năm 1945 làm Hương Mục nên gọi là Mục Bòng, sau Cách Mạng Tháng 8/1945 đến năm 1954 cải cách ruộng đất bị qui là địa chủ, cụ lấy 2 vợ :
+Vợ thứ 2 là Nguyễn Thị Thơm giỗ ngày 12/07 người làng xã Ngư Lộc, huyện Hậu Lộc, thỉnh Thanh Hoá, người làng Diên Phố, sinh được 1 nam 1 nữ :
1. Nguyễn Đình Ba (2)
2. Nguyễn Thị Hoà (1) lấy anh Quảng người làng Doãn
3. Nguyễn Thị Tho (3) lấy anh Thọ con ông Bồi ở Tân Thành.
17.2Nguyễn Đình Dị :
Đời thứ 17 con cụ Doãn, theo các cụ truyền miệng. Lúc ông Dị lên 10 tuổi, một hôm đi gánh nước vào hai cái be, không may bị vỡ, sợ bỏ đi lên mãi Bái Thượng, vào làm con nuôi cho một gia đình, sau lấy vợ xây dựng gia đình trên mía Bái Thượng Thọ, Xuân bây giờ. Sinh được 3 người con trai.
Sinh được 3 người con trai: 1. Nguyễn Đình Ước.
2. Nguyễn Đình Cầu. (Đời thứ 18)
3. Nguyễn Đình Quán.
Hiện nay tất cả gia đình con cháu ông Doãn ở làng Mía, Bái Thượng, huyện Thọ Xuân, Thanh Hoá.
17.3 Nguyễn Đình Tuân: cháu đời thứ 17 con trai cụ Chợp giỗ ngày 24/10.
Vợ là Nguyễn Thị Chưng giỗ ngày 07/05, người nhà ông Nguyễn Hữu Kháu sinh ra ông Tụng, Nhẽ Do bây giờ. Sinh được 3 trai 1 gái:
1. Nguyễn Đình Chiến (đời thứ 18)
2. Nguyễn Đình Hiến (đời thứ 18)
3. Nguyễn Đình Viễn (đời thứ 18)
4. Nguyễn Thị Quyến là chị cả chết năm 17 tuổi.
Đời thứ 18:
18.1 Nguyễn Đình Ba con trưởng của ông Ninh đời thứ 18.
Anh Nguyễn Đình Ba sinh năm 1954 được 7 ngày thì gia đình bị quy địa chủ trong Cải cách ruộng đất và bị tịch thu hết gia tài không có ăn, phải nhờ mẹ anh Nguyên Nga làng Cẩm bây giờ tên là bà Ngôn. Đem cả 2 mẹ con về quê ngoại Diêm Phố để nhờ cậu giúp sinh sống. Nay anh Ba lấy vợ là Thị Thoa, cùng người Diêm Phố và gia đình ở đó làm nghề cá biển. Sinh được 2 con trai là:
• Nguyễn Đình Hải (đời thứ 19)
• Nguyễn Đình Hà (đời thứ 19)
Còn gia đình bố già (ông Ninh) sẽ giao cho em gái là Nguyễn Thị Tho về ở gia đình trông nom cho là Nguyễn Đình Ninh và gánh vác công việc giỗ lạt thay cho em anh Ba trong khi anh Ba còn ở xa chính quán chưa vê được.
18.2 Nguyễn Đình Ước cháu đời thứ 18 con đầu ông Dị (không thấy nói trong gia phả).
18.3 Nguyễn Đình Cầu cháu đời thứ 18 con thứ 2 ông Dị (không thấy nói trong gia phả).
18.4 Nguyễn Đình Quán cháu đời thứ 18 con thứ 3 ông Dị (không thấy nói trong gia phả).
18.5 Nguyễn Đình Chiến: đời thứ 18 con trai đầu ông Tuấn. Sau khi khởi nghĩa làm du kích thôn, đội trưởng, trung trực, dám nói dám làm, giàu lòng với anh em. Ông lấy 2 vợ và có 9 người con, 6 con trai, 3 người con gái và có 1 người con nuôi.
+ Vợ cả là Nguyễn Thị Nhẽ, cô ruột ông Nhất Cái làng Cẩm, sinh ra 3 gái:
1. Nguyễn thị Quyết lấy anh Lân cùng làng
2. Nguyễn Thị Tâm lấy anh Xuân ở làng Niệm nay cũng về làng Cẩm xã Đông Yên.
3. Nguyễn Thị Thi lấy anh Quý con ông Tậy làng Bằng.
Bà Nhẽ có 1 con nuôi là Nguyễn Đình Minh
+Vợ thứ 2 là Nguyễn Thị Miến con bà Phường, chị ruột ông Nở ở làng Cẩm (ngày xưa còn gọi nhà ông Khái Huê), sinh được 6 người con trai:
1. Nguyễn Đình Lượi
2. Nguyễn Đình Quang
3. Nguyễn Đình Định
4. Nguyễn Đình Thành
5. Nguyễn Đình Thư
6. Nguyễn Đình Thọ
18.6 Nguyễn Đình Hiến: đời thứ 18 con thứ 2 ông Tuấn, là Đảng Viên Đảng Cộng Sản Việt Nam. Trước là cán bộ ngân hàng Thanh Hoá, sau là huyện uỷ huyện Nông Cống phụ trách nông thôn. Rồi ra đi bộ đội là trung uý, bây giờ về quê vợ kế mẫu tại xá Thái Hoà huyện Triệu Sơn. Ông được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng I.
Ông lấy 2 vợ sinh được 3 người con 2 trai và 1 gái.
Bà sinh 1 trai là: Nguyễn Đình Hương (1), Hương lên 6 tuổi thì bà Ngân chết.
Ông Hiến lấy bà thứ 2 kế mẫu là Lê Thị Miến ở xã Thái Hoà, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Sinh được 1 trai và 5 gái:
1. Nguyễn Đình Tính(6)
2. Nguyễn thị Thắm(3)
3. Ng. thị Vinh(5)
4. Ng. thị Hoa (1)
5. Ng. thị Tươi(2)
6. Ng. thị Xem(4)
18.7 Nguyễn Đình Viễn: đời thứ 18 con thứ 3 ông Tuấn, có đi bộ đội chống Pháp, chức vụ huyện đội trưởng thượng uý- Đảng Viên Đảng cộng sản Việt Nam. Vợ là Lê Thị Bường, cô ruột ông giáo Khuông ở làng Doãn sinh được 2 trai 2 gái là.
1. Nguyễn Đình An(1)
2. Nguyễn thị Xuân
3. Nguyễn Đình Thịnh
4. Nguyễn thị Thủy
Đến năm 1956 gặp khó khăn bà Bường có 1 con là Đình An hai mẹ con ra thăm chồng ở Hà Nội. Khi ra ngành ông Viễn xin làm cấp dưỡng ở bộ Quốc Phòng, nay cả gia đình về ở tại phố Ngọc Hà-Hà Nội, có con gái là Nguyễn Thị Xuân đã lấy chồng ở Cầu Giấy ngoại thành Hà Nội.
Đời thứ 19:
19.1 Nguyễn Đình Lượi: đời thứ 19, con trai đầu ông Chiến, đi bộ đội chống Mỹ hoàn thành trở về.
Vợ là Nguyễn Thị Đượm ở làng Mau Xá, xã Đông Minh, sinh được 3 trai 1 gái:
1. Nguyễn Đình Lương (2)
2. Nguyễn Đình Trường (4)
3. Nguyễn Đình Lâm (3)
4. Nguyễn thị Lý (1)
19.2 Nguyễn Đình Quang: đời thứ 19 con thứ 2 ông Chiến, đi bộ đội, làm tròn nghĩa vụ xin về. Vợ là Lê Thị Liên con ông Tuyên Phượng làng Doãn, sinh được 2 con trai 1 gái là:
1. Nguyễn thị Hà (1)
2. Nguyễn Đình Trung (2)
3. Nguyễn Đình Sơn (3)
19.3 Nguyễn Đình Định : đời thứ 19, con thứ 3 ông Chiến đi bộ đội sau chuyển sang công an bảo vệ lăng Bác Hồ, sau khi xong nghĩa vụ xin về.
Vợ là : Lê thị Luận con bà Chiến Tạy làng Trường, sinh được 2 trai là:
1. Nguyễn Đình Linh (1)
2. Nguyễn Đình Lệ (2)
19.4 Nguyễn Đình Hương: đời thứ 19 con đầu ông Hiến, đi làm công nhân lâm nghịêp. Lấy vợ là Nguyễn Thị Thu cùng quê mẹ kế mẫu, anh Hương sinh được 1 con trai và 1 con gái là:
1. Nguyễn Đình Cẩm
2. Nguyễn thị Hoa
A3. NGUYỂN ĐÌNH CƯỜNG :
Đời thứ 15
Cụ Nguyễn Đình Cường đời thứ 15 là con thứ 3 cụ Lam
Cụ Nguyễn Đình Cường là khởi tổ của phân chi cấp 7, là người hào hoa phong nhã, được con cháu yêu mến. Thời nhà Nguyễn cụ đi lính được phong sắc là Tiền ứng binh Xuất đội, năm trước thường gọi là ông đội Cường. Cụ mất ngày 10/04.
Vợ là Nguyễn Thị Lượi, người về lối nhà ông Doãn vẫn ở thôn Doãn bây giờ, giỗ ngày 26/09.
Sinh được 4 trai 1 gái:
1. Nguyễn Đình Canh : Giỗ ngày 7/3
2. Nguyễn Đình Hy : Giỗ ngày 1/10
3. Nguyễn Đình Hà : Giỗ ngày 26/8
4. Nguyễn Đình Hạ : Giỗ ngày 16/12
5. Nguyễn thị Trúc : Giỗ ngày 15/11
Đời thứ 16
16.1 Nguyễn Đình Canh: đời thứ 16 con trửơng cụ Cường.
Vợ là Lê Thị Trà, con cụ Lê Văn Hợp ở nhà bà Lương (Hiến Hưởng) ở làng Doãn bây giờ. Sinh được 2 trai 4 gái:
1. Nguyễn Đình Hai Giỗ ngày 20/2
2. Nguyễn Đình Bi Giỗ ngày 28/5
Và 4 con gái là :- Nguyễn Thị Trịnh :giỗ ngày 14/04 lấy ông Lê Văn Dục tức là ông Tục ở làng Doãn bây giờ.
- Nguyễn Thị Lệnh lấy ông Nguyễn Trung Nhứ sinh ra ông Tăng ở làng Bằng bây giờ
- Nguyễn Thị Lềnh lấy ông Nguyễn Trung Giao đẻ ra ông Bốn, ông Tiếu ở làng Bằng bây giờ, giỗ ngày 24/03.
- Nguyễn Thị Xềnh lấy ông Nguyễn Hữu Cũng đẻ được Nguyễn Thị Trọ, bây giờ ông Nguyễn Hữu Nhi ở làng Cẩm lập thờ phụng.
16.2: Nguyễn Đình Hy: đời thứ 16 con thứ 2 của cụ Cường.
Cụ Hy là người nhỏ nhắn, tính nết hiền hoà, mọi người dễ quý mến, thọ 86 tuổi, giỗ 01/10. Vợ là Nguyễn Thị Ấm giỗ 06/11, sinh được 2 trai 1gái là:
- Nguyễn Đình Tích giỗ ngày 15/06
- Nguyễn Đình Tóc giỗ ngày 05/03
- Nguyễn Thị Cóc lấy chồng ở làng Bằng.
16.3: Cụ Nguyễn Đình Hà: đời thứ 16 con thứ 3 cụ Cường Cụ làm nghề vá may, có chứng đau bụng, giỗ ngày 26/08 .Giỗ 26/8.
Vợ là Lê Thị Thanh người nhà ông Gấm làng Trường (nay gọi là ông Gấm Khánh), giỗ ngày 02/05 sinh 2trai 1gái là:
a)Nguyễn Đình Thủ
b)Nguyễn Đình Thú
c) Nguyễn Thị Lựu lấy ông Lê Văn Chấp làng Doãn sinh được 1 con gái là Lê Thị Doãn.
16.4: Nguyễn Đình Hạ : đời 16 con thứ 4 cụ Cường. Giỗ 16/12.
Vợ là Thiều Thị Thừa giỗ 23/03 người nhà ông Hội Thùng ở làng Doãn. Cụ không có con, chính ra ông Nguyễn Đình Ngọ con ông Thủ, cháu đích tôn ông Hà là anh ông Hạ sễ kế tự thờ ông Hà. Nhưng khi cụ Hà mất có hỏi ông Ngọ xin cáo từ vì đông người nên cụ Hạ có báo cho cụ về qui trưởng tức là ông hai mà bây giờ kế tự ông là Nguyễn Đình Hinh, nhưng sau khi ông Hà chết được 1 năm thì Thị Thừa chấp nhận lời xin của ông Tích là con đầu của ông Huy đem về lập tự cho con trai thứ 2 của ông Tích là Nguyễn Đình Sơn con bà Thị Láng vợ thứ 2 của ông Tích, tài sản lúc bấy giờ của cụ Hà là:
- Nhà: kể cả nhà ngoài, nhà buồng, chuồng bò là 3 gian 1 trái bằng tre.
-Một con bò cái vàng, 7 sào ruộng và 1 số chum vại mâm nồi, bát đĩa dụng cụ gia đình.
Do đó, nay cụ Nguyễn Đình Hà, bà Thiều Thị Thừa là ông Nguyễn Đình Sơn con bà Láng thờ.
16.Nguyễn thị Chúc: là con gái của cụ Cường, chết năm 12 tuổi, sau đó có cấp phụng 1 sào ruộng cho ông Nguyễn Đình Tóc là cha ông Nguyễn Đình Nhu bây giờ thờ phụng, giỗ ngày 15/11.
Đời thứ 17
17.1 Nguyễn Đình Hai: đời thứ 17 con trưởng ông Canh, giỗ ngày 20/02 ông lấy 2 vợ và được 2 con gái:
+ Vợ cả là Nguyễn Thị Lương cô ruột ông Nguyễn Hữu Lại ở làng Doãn, giỗ ngày 01/11, sinh được 2 con gái nhưng đều chết cả:
1-Nguyễn thị Hựu
2-Nguyễn thị Hữu
+Vợ 2 là Lê Thị Canh con ông Lê Văn Vãng ở thôn Viên Khê xã Đông Anh, huyện Đông Sơn. Nay có ông Hướng gọi bà Canh là cô ruột thờ cụ Vãng, giỗ ngày 28/08. Bà Canh sinh được 2 con gái:
3- Nguyễn Thị Hoà lấy anh Nông người xã Minh Nghĩa, huyện Nông Cống, sinh được anh Bằng, anh Ba bây giờ.
4- Nguyễn Thị Thuận lấy anh Vân con ông Lê Văn Đối ở làng Doãn bây giờ.
Khi ông Hai chết thì bà Canh có nhận để cho con gái là Thị Ngà thờ cha mẹ, còn tổ tiên lúc bấy giờ anh em trong họ không đồng ý, mà giao cho ông Bi là con thứ 2 của cụ Canh thờ phụng. Nhưng sau khi Thị Hoà lấy chồng là anh Nông về quê cha đẻ ở (Hoà) một thời gian rỗi lại về chính quê nhà chồng là ông Nông ở xã Minh Nghĩa, huyện Nông Cống ở thì bà Canh cũng đi theo con gái nhưng do sự bạc đãi của con rể bà Canh ốm chết chôn tại Nông Cống, sau mai táng lại đem về Cẩm Nga, huyện Đông Sơn là quê cũ cất táng. Giỗ tết giao lại cho ông Bi, cháu đích tôn cụ Canh là Nguyễn Đình Hinh thờ phụng cả.
17.2 Nguyễn Đình Bi: đời thứ 17 con thứ 2 của cụ Canh (giỗ ngày 28/05).
Vì ông Nguyễn Đình Hai không có con trai, con gái là Nguyễn Thị Hoà lại theo chồng nên ông Bi thay trưởng thờ tổ tiên phân chi cấp 7 (cụ Đình Cường).
Vợ là Lê Thị Nghềnh (giỗ 21/08)
Là con ông Lê Văn Mán, là cô ruột nhà ông Hỡi ở làng Cẩm bây giờ, thọ 59 tuổi,
Sinh được 3 trai 2 gái:
1. -Nguyễn Đình Hinh
2. -Nguyễn Đình Hợp
3. -Nguyễn Đình Công
17.3 Nguyễn Đình Tích: đời thứ 17 cháu đầu cụ Huy, có nghề làm thịt lợn, giỗ ngày 15/06, lấy 2 vợ sinh 7 người con 3 trai 4 gái. Vợ cả là Nguyễn Thị Dĩ cô ruột ông Yến cùng làng Cẩm, sinh được 2 trai 2 gái, giỗ ngày 04/12
1 -Nguyễn Đình Phong
2 –Nguyễn Đình Hồng
3 - Nguyễn Thị Ngũ chết năm 12 tuổi
Sau khi bà Dĩ mất thì ông Tích lấy bà hai là Nguyễn Thị Láng ở làng Duệ Tây xã Hoàng Đạt, huyện Hoàng Hoá, tỉnh Thanh Hoá, nay có công thờ phụng cha mẹ. Từ năm 1962 gia đình ông cũng đi di cư ở Văn Bão, huyện Thạch Thành, bà Láng sinh 2 trai 2 gái.
1-Nguyễn Đình Sơn
2-Nguyễn Đình Thiện
3- Nguyễn Thị Lắng lấy ông Chầy ở làng Phúc Ấn
4- Nguyễn Thị Thắng lấy anh Sơn ở xóm Phú xã Đông Hà.
17.4 Nguyễn Đình Tóc: : đời thứ 17 con thứ 2 cụ Hy, làm nghề thầy cúng. Giỗ 5/3
Vợ là Nguyễn Thị Vạn con ông thơ Phượng làng Bằng. Chết ngày 17/09 năm Mậu Thìn. Sinh được 2 trai 3 gái là:
1. -Nguyễn Đình Nhu(3)
2. -Nguyễn Đình Chữ(5)
3. - Nguyễn Thị Vân lấy ông Hoành xã Đông Văn làng Miến Thôn.
4. - Nguyễn Thị Sơn lấy ông Châu làng Doãn.
5. -Nguyễn Thị Tứ : lấy ông Nguyễn Trung hội ở làng Trường. Đi hộ đội chống Pháp sau chuyển ngành cán bộ ngân hàng. Đại học, được thưởng huân chương kháng chiến hạng I, nghỉ chế độ hưu trí. Vợ là Nguyễn Thị Chẹt con ông Do ở làng Bằng, sinh được 3trai 1 gái là:
1. -Nguyễn Đình Như(1)
2. -Nguyễn Đình Tiến(3)
3. -Nguyễn Đình Lực(4)
4. -Nguyễn thị Xuân(2)
17.5 Nguyễn Đình Thủ: đời thứ 17 con đầu của cụ Hà, giỗ ngày 12/11
Vợ là Nguyễn Thị Sự cô ruột ông Dũng Thuấn làng Cẩm, giỗ ngày 16/08 sinh 1 nam 1 nữ.
-Nguyễn Đình Ngọ (2)
- Nguyễn Thị Cự (1) trước lấy ông Nguyễn Tư làng Doãn, sinh được Nguyễn Thị Dư rồi ông Tư chết, sau lại tái giá lấy ông ở huyện Bình Lục tỉnh Hà Nam Ninh sinh được 2 con trai rồi chết năm 1987.
Theo các cụ nói chuyện khi ông Thủ chết ông Ngọ còn ở trong thai (12/11) mãi đến tháng 04 năm sau mới sinh ông Ngọ. Do đó ông Ngọ không biết được cha.
17.6 Nguyễn Đình Thú : đời thứ 17 con thứ 2 cụ Hà, có chứng đau bụng kinh niên, năm Ất Dậu (1945) đói đến mùa lúa mới được ăn, bị một cơn đau bụng rồi chết vào 24/04.
Vợ là Lê Thị Mão em ông Lê Văn Tám ở làng Trường, cũng chết năm Ất Dậu 08/06, sinh được một người con trai là Nguyễn Đình Vui chết cùng năm đó, nên tất cả con cháu cụ Hà có một ông Đình Ngọ thờ phụng.
Đời thứ 18
18.1 Nguyễn Đình Hinh: đời thứ 18 con trai đầu của ông Bi, nhờ đi học lớn thoát ly làm cán bộ, là uỷ viên UBND huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá. Đến năm 1966 đi làm chuyên gia nước Lào. Năm 1982 về nghỉ hưu trí và được thưởng.
Năm 1961: Nứơc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà thưởng huy chương hạng nhất.
Năm 1988: Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thưởng huân chương chiến thắng hạng nhất
Năm 1976: được Nước Cộng Hoà Dân Chủ Lào tặng: 1 huân chương kháng chiến hạng nhất
1 huy chương chiến thắng hạng nhất.
Vợ là Đòng Thị Yến con là Lê Thị Phiến, ông Đòng Văn Đô tức là con ông Thống ở khu phố chợ Mục bây giờ sinh được 7 người con 3 trai 4 gái:
1. Nguyễn Đình Hạnh
2. Nguyễn Đình Hiếu
3. Nguyễn Đình Học
4. Nguyễn thị Hương
5. Nguyễn thị Phúc
6. Nguyễn thị Hậu
7. Nguyễn thị Hiền
18.2Nguyễn Đình Hợp: đời thứ 18 con trai thứ 2 của ông Bi, đi bộ đội chống Pháp, Mỹ về sau tiếp tục làm nghề dạy học. Ông được tặng 2 huân chương: hạng I và hạng ba, cấp bậc quân đội là trung uý.
Vợ là Nguyễn Thị Lục con ông Nguyễn Ngũ ở làng Bằng (tức nhà anh Bảng bây giờ), sinh được 3 con trai 3 con gái là :
1- Nguyễn Đình Cảnh: học Đại học tổng hợp nay là quản đốc liên hiệp bánh sữa Mộc Châu.
2- Nguyễn Đình Vinh: công nhân điện nông trường Mộc Châu.
3- -Nguyễn Đình Thịnh
4- - Nguyễn Thị Dung: trung cấp giáo viên lấy chồng ở Mộc Châu sinh được 2 con gái.
5- - Nguyễn Thị Vân: giáo viên trường cấp 2
6- - Nguyễn Thị Thương
Toàn bộ gia đình công tác tại công trường Mộc Châu, tỉnh Sơn La từ năm 1973, nay cả 2 ông bà nhà ông Hợp đều được hưởng hưu trí.
18.3 Nguyễn Đình Công: đời thứ 18 con trai thứ 3 của ông Bi.
Ông Công là công nhân nhà máy của ông Mực Như Xuân, Thanh Hoá. Được thưởng huân chương chiến thắng hạng nhất, nay về nghỉ hưu trí. Vợ là Lê Thị Thanh con cụ Sơn ở xã Quảng Lộc, huyện Quảng Sơn cũng là công nhân lâm trường làm nghề y tá, nay cũng được nghỉ hưu trí. Sinh được 5trai 1 gái:
1- Nguyễn Đình Hoàng: đại học Quân sự ở tỉnh đội Lạng Sơn (1990)
2- Nguyễn Đình Hương: công nhân cơ khí Quốc Phòng, 1989 đi Hungari xuất khẩu lao động nước ngoài.
3- Nguyễn Đình Huy: đang học lớp 12.
4- Nguyễn Đình Hải.
5- Nguyễn Đình Hợi.
6- Nguyễn Thị Hằng: chị cả, giáo viên cấp II lấy chồng ở xã Vạn thiện, Nông Cống.
Tất cả ở bến Mục, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá.
18.aNguyễn thị Dị: lấy ông Nguyễn Chung Chầy ở làng Trường sinh 1 gái là Nguyễn Thị Nhì rồi chết ngày 21/09, mới có 25 tuổi, sau đó ông Chầy lấy kế mẫu là Nguyễn Thị Mơi sinh ra ở Nguyễn Trung Minh theo giỗ tiết đến bây giờ.
18.bNguyễn Thị Phỏng: con gái thứ 2 của ông Bi lấy ông Nguyễn Văn Thi người gốc ở tại Cầu Chầu xã Đông Tân huyện Đông Sơn, sinh ra 6 người con trai: “Hùng, Phi, Phương, Thức, Từ, Hải” và 2 con gái: “Hằng, Nga”.
18.4Nguyễn Đình Sơn: đời 18 con trai thứ 2 ông Tích, là em cùng cha khác mẹ với ông Phòng. Làm nghề lái xe.
Vợ là Lê Thị Hưng ở tỉnh Hải Hưng sinh được 2trai 3 gái là:
1. -Nguyễn Đình Trường(3)
2. -Nguyễn Đình Thủy (4)
3. -Nguyễn thị Huệ(1)
4. -Nguyễn Thị Lan(2)
5. -Nguyễn Hữu Huyền(5)
Nay cả gia đình ở ngoài Hàm Rồng, Thanh Hoá.
18.5Nguyễn Đình Thiện: đời thứ 18 con thứ 3 ông Tích, em cùng cha khác mẹ với ông Đình Phòng. Đi bộ đội, đại học Quân sự, trung uý. Đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Vợ là Nhữ Thị Huệ cháu ông Mục cùng làng Vinh, Triệu Sơn, sinh được 1trai 1 gái là:
-Nguyễn Thu Hằng
-Nguyễn Đình Hùng
18.6Nguyễn Đình Phòng: đời thứ 18 con cả ông Tích, tham gia công tác địa phương được tặng huy chương hạng I, Đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Vợ là Nguyễn Thị Liên chị ruột ông Nẫy làng Bằng sinh được 2 trai 2 gái.
5-Nguyễn Đình Châu
6-Nguyễn Đình Ngọc
7-Nguyễn Đình Hiệp.
8- Nguyễn Thị Hoà lấy anh Liên xã Đông Tân huyện Đông Sơn.
18.7 Nguyễn Đình Chữ: đời thứ 18 con trai thứ 2 ông Tóc, là giáo viên cấp 2, được tặng Huân Chương Chiến Thắng hạng I.
Vợ là Phạm Thị Hà con ông Phạm Văn Hợi ở thị xã Thanh Hoá cũng làm nghề dạy học. Sinh được 2 trai 2 gái:
1. -Nguyễn Tuấn Anh(1)
2. -Nguyễn Hoàng Anh(2)
3. -Nguyễn thị Vân Anh (3)
4. -Ng. thị Lan Anh (4)
Nguyễn Tuấn Anh là trung cấp công nhân cơ khí Quốc Phòng, nay cả gia đình xây cơ lập nghiệp tại xã Đông Tân.
18.8 Nguyễn Đình Ngọ: đời thứ 18 con ông Thủ, bị mồ côi cha từ ở trong bụng mẹ, có tham gia công tác địa phương.
Vợ trước lấy bà Nguyễn Thị Hoe em ông Hoè ở làng Bằng rổi bỏ nhau. Sau lại lấy bà Nguyễn Thị Sắc em ông Hồ ở làng Đống Xá huyện Triệu Sơn sinh ra 2 trai 4 gái là:
1. Nguyễn Đình Nghĩa (2)
2. Nguyễn Đình Tình (5)
3. Nguyễn thị Màu (1)
4. Nguyễn thị Tính (4)
5. Nguyễn thị Toan (3)
6. Nguyễn thị Tâm (6)
Đời thứ 19
19.1Nguyễn Đình Hạnh: đời 19 con đầu ông Hinh, học hết lớp 10 đi công nhân Quốc Phòng sau đi Đại Học cơ khí vì sức khoẻ yếu nên phải về nhà lấy vợ. Đầu tiên lấy Lê Thị Mão là con ông Lê Văn Thơ ở Cẩm Nga rồi bỏ nhau, sau lại lấy Lê Thị Muôn con bà Xềnh chị anh Năm ở xóm Minh xã Đông Hoà sinh được 2 trai 2 gái::
-Nguyễn Đình Tôn(3) -Nguyễn Thị Tuyền (1)
-Nguyễn Đình Tư(4) -Nguyễn thị Tuyến(2)
Nguyễn Đình Tư sinh 28 Ất Mão tháng 06 (Quý Mùi) năm Canh Ngọ (tức là 18-08-90)
19.2 Nguyễn Đình Hiếu: đời thứ 19 con trai thứ 2 của ông Hinh. Đi bộ đội chống Mỹ chức vụ Đại đội trưởng, độc lập cấp bậc Trung Uý, Đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam. Bị hy sinh ở chiến trường Campuchia (02/09/1983) tức 26/07 năm Quý Hợi.
Vợ là Nguyễn Thị Khánh con ông Nguyễn Đăng Dung ở xóm Đại xã Đông Hoà, sinh được 2 con gái là:
-Nguyễn thị Khuyên
-Nguyễn thị Chuyên
+Nguyễn thị Phúc lấy chồng là Nguyễn Trung Năm ở làng Bằng
+Nguyễn thị Hậu Phạm Văn Đắc ở Hải Hưng di cư vào Cẩm Nga ở Đông Yên
19.3Nguyễn Đình Châu: cháu đời thứ 19 con đầu ông Phòng. Vợ là Nguyễn Thị Thành ở làng Đông Xá, Triệu Sơn, sinh 2 nam 1nữ là:
Nguyeãn Ñình Long (1)
Nguyễn thị Tuyết(2)
Nguyễn Đình Tài(3)
19.4Nguyễn Đình Ngọc: đời thứ 19 con thứ 2 ông Phòng. Đi bộ đội chống Mỹ, trung uý, Đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam, nay về nghỉ hưởng mất sức, được tặng huân chương kháng chiến hạng nhất, nghề Y tế.
Vợ là Lê Thị Thảo con ông Vinh ở làng Kim Bôi xã Đông Thanh, Đông Sơn. Cán bộ phòng truyền thanh huyện Đông Sơn, sinh được 2 con trai:
1-Nguyễn Đình Mạnh
2-Nguyễn Đình Thắng
19.5Nguyễn Đình Như: đời 19 con đầu ông Nhu, trung cấp Công An.
Vợ là Lê Thị Thu người ở huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình, cùng công tác với anh Như ở cơ quan Công An Đà Nẵng nên đôi bên tìm hiểu nhau lấy nhau. Năm 1989 sinh được 1 con gái tên là Nguyễn Thị Nhung.
19.6Nguyễn Đình Nghĩa : đời 19 con trai đầu của ông Ngọ có tài bắt lươn, ếch, cá. Tay bị tật vì rắn cắn, vợ là Lê Thị Phượng con ông Lê Văn Sự cùng làng Bằng.
Đúng như bài thơ suy tôn cụ tổ phân chi cấp 6 của chúng ta là: Nguyễn Đình Lam là xứng đáng:
Đúng như bài thơ suy tôn cụ tổ phân chi cấp 6 của chúng ta là: Nguyễn Đình Lam là xứng đáng:
- Sau cụ con cháu ngày đông đúc.
- Phú quý khang ninh chẳng có hèn.
Phần thứ 3
DIỄN ĐẠT ĐỒ PHẢ VỀ PHÂN CẤP, PHÂN CHI.
A-MỤC LỤC : Do chưa có tài liệu của các chi, nhánh khác nên tạm thời mới có 4 phần.
Mục 1:
I/A: là phần chính của toàn bộ chi cấp 6 Đình Lam.
-A1: nói về cụ Mạo con cả của cụ Lam
-A2: nói về cụ Tể con thứ 2 của cụ Lam
-A3: nói về cụ Cường con thứ 3 của cụ Lam
I/B: nói về Cụ Ngân, cụ Đội, cụ Nghi (ở nhà ông Thiềng).
- Cụ Hy, cụ Hiệp (ở nhà ông Cấn)
I/C: nói về cụ Phong, Điều, Đỉnh, Hội (ở nhà ông Đội, ông Hớn)
Mục II: nói về ông Đễnh (ở nhà anh Phong) gồm có :
II/A: Ông Thuyên (ở ông Phong)
Ông Thứ (ở anh Hợp)
Ông Tuyết (ở anh Doan)
II/B: ông Thể (ở anh Lịch)
Ông Liền (ở ông Lợi)
Ông Phạn (ở anh Tá)
Mục III : nói về ông Đình Đạo (ở nhà cụ Đông Nhược)
Mục IV: nói về dòng ông Nhữ Lương (ở nhà chú Lọc và Sâm ngượi)
B- PHÂN CẤP CỦA CÁC CHI TRONG HỌ:
Phần B
Lập từ 20-8 1990 Bảng phân cấp các phân Chi của họ Lớn
Tên Cụ Tổ |
Đời |
Cấp phân chi |
Tên Chi Trưởng |
Số TT |
Trực thuộc phân chi
(Vì chưa đủ tiêu chuẩn phân chi) |
Nhữ Lương
Đình Đạo
Đình Bảo
Đình Vậy
Đình Hiệu
Đình Hy
Đình Hợi
Đình Giai
Đình Thể
Đình Liễn
Đình Phạm
Đình Điềm
Đình Lam
Đình Tể
Đình Thứ
Đình Tuyết
Đình Cường
Đình Đoan |
3
9
10
-
12
-
13
-
-
-
-
14
-
15
15
-
-
-
|
I
II
III
-
IV
-
V
-
-
-
-
VI
-
VII
VII
-
-
-
|
Nguyễn Đình Lọc
Nguyễn Đình Nhược
Lan Trà Tỉnh Gia
Nguyễn Đình Thiềng
Nguyễn Đình Đợi
Nguyễn Đình Cấn
Nguyễn Đình Hớn
Đình Lâm (ngượi)
Đình Lịch
Đình Lợi
Đình Tá
Đình Văn
Đình Hãi (Mược)
Đình Ba
Đình Hợp
Đình Đoan
Đình Hinh
Đình Hiền
|
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
|
Còn trực thuộc
Vào chi trưởng Ô.Phong
Chi ông Thiềng
Chi ông Đợi
Chi anh Phong
Chi anh Phong
Chi anh Hải (mược)
Chi Đình Văn |
Có 12 Chi độc lập = 12 trưởng chi
Có 5 chi trực thuộc
Tháng 8 – 1990 Đại Tông Nguyền Đình
Trưởng đời thứ 20 đời
Đình Phong
Tiêu chuẩn phân chi: Tác bé chi Tử có 3 người trở lên là được phân chi
Ngày giỗ các vị Tổ trong nhà thờ lớn: Toàn Họ
1).Nguyễn Đình Ngộ - Tự Chân Như
- Thuỵ : Thuần Tiến Trưởng Chi
Sắc phong: Đôn nghĩa hàm thăng phụ quốc, thượng tướng quân cẩm y vệ, đô chỉ huy sứ
Gia Tặng : Sắc trung hiệp mua dậc Vận, bão chính minh nghĩa, đông đức tá tích phụ quốc tán tự công thần hiệp thị nội tư đồ, tham dự triều chính, thiền quận công.
Tặng quốc Tính : Lê Ngộ . Giỗ ngầy 23/4.
2). Nguyễn Đình Độ. Tự tâm giác. thuỵ Thuần Trung
Vinh dự : Sắc phong Bình Ngô Khai Quốc Công thần phong.Chức thiên Lục Hàn. Giỗ ngày 23/1.
- Vợ là : Chu Thị Nhiên: Giỗ 5/5.
3). Nguyễn Đình Sương . Tự tâm thiện Thuỵ thuý Tĩnh Lượng phủ quân
Vin dự lưỡng học: Bình Ngô Khai Quốc Công thần phong: Dương Nguyên Hầu. R. Giỗ ngày 23/6
- Vợ là: Lê Thị Thành : Giỗ 15/7
4). Nguyễn Đình Khế: Sắc phong: Bình mạc Đại Tướng Quân, tuyên lực Quận Công, thiên sang khánh văn hàm Bình Khế => Tự : Bản Tính. Thuỵ: Thuần Đức. Giỗ ngày 19/11 . R
5). Nguyễn Đình Uyên: Vinh dự hưởng lộc: Sắc phong :Bình Ngô Khai Quốc Công thần Phong trưởng Chi: Văn Xuyên Hầu. Tử Đình Uyên. Giỗ 6/12. R
6).Nguyễn Đình Cấp: Vinh dự hưởng lộc: Sắc phong: Bình Ngô Khai Quốc Công Thần Trưởng chi, Văn Bá Tử. Giỗ 23/8.R
- Vợ Nguyễn Thị Khơn. Giỗ 26/2
37). Nguyễn Đình Thông Tự: Huệ Khánh
Thuỵ : Chân Quang Phủ Quân
Vinh dự hưởng lộc: Sắc phong Bình Ngô Khai Quốc Công Thần Tôn Trưởng Chi, chức đặc Thị Nội nhưng Cức Lê Thọ Nam Đình Thôn. Giỗ 25/9
- Vợ: +Vợ Cả : Lê Thị Quyện. Giỗ 12/1
+Vợ Thứ: Lê Thị Bố. Giỗ 14/12
Sau Cụ khởi tổ Thái phó ty quốc Công Như Soạn thì cả họ Lớn còn phải làm 7 cái giỗ kê liệt trên. Tính Ông Cặp là: 15 Cái
Chi Cấp 6 : Cụ Đình Lam
1).Cụ Nguyễn Quý Công Tự Phúc Lam, Húng Lạm .Giỗ 8/4
Vợ Lê Quý Thị Hiệu từ Cua huý Cua. Giỗ Ngày 26/8
2). Các con Cụ Lam:
- Con cả: ( Ở Chị Mược) Tự phúc Mạo . Giỗ
Vợ là:
- Con thứ 2 : (Ở ông Mục Bông) Nguyễn Quý Công Tự Phúc Tể. Giỗ 27/8
- Vợ : Lê Thị Phiên >Giỗ 2/3
- Con thứ 3: (Ở ông Hạnh) Nguyên Quý Công Tiền ứng bình Xuất đội, Tự phúc Cường Huý Cường. Giỗ 10/4
Vợ : Nguyễn Thị Sượi. Giỗ 26/9
Đời thứ 9: Miễn trừ 4 người:
1. Ông Niên
2. Ông Thiên
3. Ông Bình
4. Ông Phượng
Click [here] to send e-mail to me or icon go to Home: