VỀ VIỆC GHI CHÉP VÀ BIÊN SOẠN TỘC PHẢ
"Uống nước nhớ nguồn" là đạo lý, là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam nói chung và của mỗi dòng họ nói riêng.
Xưa nay, các dòng họ thường rất coi trọng việc biên soạn tộc phả/ gia phả để ghi chép lại quá trình hình thành và phát triển của dòng họ mình. Con người hiếu hạnh phải hiểu được nguồn gốc, công đức của các bậc Tiên Tổ. Xem tộc phả để biết gốc tích của Thủy Tổ, biết các thế hệ Tiên Tổ, biết quan hệ trên dưới thân sơ trong dòng họ, biết năm sinh tháng mất, ngày kỵ giỗ của các bậc tiền nhân. Tộc phả còn chú trọng ghi lại những sự tích đặc biệt, những nhân vật tiêu biểu của các bậc Tiên Tổ và con cháu trong dòng họ qua các thời kỳ. Do vậy, tộc phả/ gia phả được coi như gia bảo của mỗi dòng họ Việt Nam.
Họ Nghiêm làng Khổng Yên đã có gia phả sớm và được bổ sung, cập nhật nhiều lần:
Lần đầu: Vào đời Tự Đức thứ 6 (1853), các bậc Tiên Tổ của họ Nghiêm làng Khổng Yên đã biên soạn và để lại cho hậu thế cuốn Gia phả họ Nghiêm làng Khổng Yên bằng chữ Hán (Bản gốc đã được tu bổ, phục chế năm 2016, hiện đang lưu giũ tại nhà thờ họ Nghiêm chi III). Trong đó có ghi rằng: "Dòng tộc gồm Nghiêm Hữu Thuận, Nghiêm Hữu Diễm, Nghiêm Hữu Học và toàn gia tộc tại thôn Khổng Yên cùng lập gia phả"....; "Nước có sử, gia có gia phả, cho nên khảo cứu các thế hệ mà truyền lại muôn đời sau. Con người ai cũng có cội nguồn, tổ tiên để tiếp nối, kế thừa mãi mãi về sau... Gia tất có phả để ghi chép tên gọi, gốc tích của sự việc, mở mang như thế nào, ở đâu để từ đó tiếp tục kể lại nguồn gốc tổ tiên cho thế hệ mai sau"... "Cây cối vốn có nguồn gốc bất di bất dịch. Nay càng thêm hết lòng ở gia phả này. Trăm năm huyết mạch có mở tất đời trước tốt đẹp, các chi khắc hưng thịnh, ắt về sau có nẩy nở sinh sôi... Người đời trước có suy nghĩ sâu sắc như chim yến ấp con... Người đời sau suy nghĩ về sự yêu thương to lớn truyền lại, góp nhặt những cái xưa cũ được nghe mà biên chép lại thành một quyển để dự sẵn thuật lại cho thế hệ con cháu đời sau không quên nguồn gốc tổ tiên..."
Có thể khảng định rằng, đó là những dòng ghi chép chí lý, đầy nhân nghĩa mà các bậc tiên tổ đã để lại cho chúng ta.
Lần hai: Vào mùa xuân năm Giáp Dần (tháng 3/ 1974): Gia phả trên đã được cập nhật, bổ sung và dịch qua chữ Quốc ngữ bởi các ông: Nghiêm Hóa, Nghiêm Ninh, Nghiêm Trí, Nghiêm Châu, Nghiêm Huyền - đời thứ 11; Nghiêm Đức, Nghiêm Tùng, Nghiêm Sửu, Nghiêm Ký, Nghiêm Duyên, Nghiêm Trương, Nghiêm Bân - đời thứ 12.
Lần ba: Năm 2000, Ban gia tộc đã giao cho ông Nghiêm Trung (đời thư 12, chi II) nghiên cứu, biên soạn lại cuốn Tộc phả họ Nghiêm cho khoa học hơn, rõ ràng và cập nhật đầy đủ nhất có thể. Việc biên soạn lần này được hoàn thành đến đời thứ 11 (đời 12 cũ) vào năm 2001, đời thứ 12 vào năm 2005 và đời 13 vào năm 2006.
Lần này: Sau khi họ Nghiêm Đại tôn tìm kiếm và khảng định được nguồn gốc tổ tiên của họ Nghiêm Đức Thọ là từ dòng họ Nghiêm xã Hòa Xá, huyện Ứng Hòa (2007), yêu cầu đặt ra là cần cập nhật các thông tin liên quan này vào Tộc phả họ tộc.
Do họ tộc Đại tôn chưa biên soạn Tộc phả chi tiết cho toàn bộ họ Nghiêm làng Khổng Yên, Ban gia tộc chi III quyết định làm "Tộc phả chi III - Can Nghiêm Hữu Học, họ Nghiêm làng Khổng Yên", gồm phần chung thuộc họ Nghiêm Đức Thọ, họ Nghiêm Đại Tôn và phần chi tiết cho chi III. Công việc được triển khai và thực hiện trong 2 năm 2019-2020. Ban soạn thảo do ông Nghiêm Kỳ Hồng, trưởng Ban gia tộc chi III phụ trách; ông Nghiêm Hồng Giang là chủ biên cùng sự hỗ trợ đầy trách nhiệm của các ông bà: Nghiêm Đức Vinh, Nghiêm Sỹ Thương, Nghiêm Thị Nhường, Nghiêm Oánh, Nguyễn Thị Bé, Nghiêm Sỹ Bồi, Nghiêm Triêu Dương, Nghiêm Đức Yên, Nghiêm Xuân Ngọ, Nghiêm Sỹ Hải (con ông Nghiêm Trự); ... Ban soạn thảo cũng đã nhận được sự góp ý của các bậc lão thành và một số thành viên Ban gia tộc họ Nghiêm Đại tôn như các ông Nghiêm Sỹ Hiếu (đời 12, chi II), Nghiêm Huấn (đời 12, chi III), Nghiêm Y (đời 12, chi V), Nghiêm Sỹ Thặng (đời 13, chi V), ...
Mục tiêu biên soạn lần này là: Cập nhật các thông tin mới được bổ sung từ các văn tự hợp nguồn; chỉnh sửa, bổ sung thông tin liên quan của các đời đã có trong các gia phả cũ; cập nhật thông tin các đời từ 14 đến 15 của chi III.
Căn cứ biên soạn và tài liệu tham khảo: Các văn bản gia phả lần 1, 2, 3 của họ tộc; tập văn tự hợp nguồn của do ông Nghiêm Bằng tập hợp năm 2012; các cuốn sách: Họ Nghiêm Đức Thọ - Lịch sử và truyền thống (Ban biên tập Lịch sử và Truyền thống họ Nghiêm Đức Thọ biên soạn, Hà Nội, tháng 9/2012), Những hạt giống đỏ làng Khóng (Do các ông Nghiêm Kỳ Hồng, Đinh Quang Việt, Nguyễn Mộng Chữ, Nguyễn Huyên, Nghiêm Y, Phạm Mạnh Lộc, Đinh Quang Lân, Đinh Quang Ấn biên soan, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2015), NGUYỄN CHÍ ĐIỀM - Vị Tư lệnh Đặc công đầu tiên (Đinh Quang Lân, Nxb Chính trị Quốc gia Sư thật, 2017), Thử lửa (Thiếu tướng Nghiêm Sỹ Chúng, Nxb Quân dội Nhân dân, 10/2012), ...; và phần quan trọng là thông tin bổ sung được các gia đình trong họ tộc cung cấp.
Tiêu chí chung khi biên soạn là cố gắng ghi chép thật ngắn gọn nhưng đầy đủ, rõ ràng. Mỗi đời ghi rõ từng người, thứ tự anh (chị) trước, các em sau; con bà cả trước, con bà thứ sau; ghi đầy đủ con trai, con gái, dâu rể; tên tuổi cháu ngoại. Các chi tiết cụ thể: Họ tên, năm sinh, năm mất, ngày giỗ (âm lịch), nơi đặt mộ, quê quán của dâu, rể; Học vấn, nghề nghiệp, nơi sinh sống - cư trú; Những đặc điểm về hiếu hạnh, công lao, thành tích, sự tích nổi bật đối với dòng họ, quê hương, đất nước của những gia tộc, gia đình, cá nhân tiêu biểu qua các thời kỳ.
Việc cập nhật thông tin từ văn tự hợp nguồn, trước hết là chỉnh sửa, đếm lùi 1 số đếm các đời từ thứ 2 trở về sau trong cuốn tộc phả Lần 3 (2001-2006): Thế hệ cha của Tổ Nghiêm Đình Gối trùng với đời thứ nhất, nên Tổ Nghiêm Đình Gối thuộc đời thứ 2. Đếm lùi tiếp, đời cuối trong tộc phả Lần 3 sẽ là 13 chứ không phải là 14 như đã ghi trong đó. Như vậy, với Tộc phả biên soạn lần này, thứ tự các đời sẽ theo thứ tự mới được xác định.
Cuốn Tộc phả đã được hoàn thành và xuất bản vào cuối tháng 12 năm 2020. Với sự đóng góp kinh phí của nhiều con cháu, Ban gia tộc đã cho in 80 cuốn bìa cứng, dày 116 trang, khổ A4, giấy tốt, có 16 trang ảnh in màu. Dự kiến sách sẽ được ra mắt, giới thiệu cho con cháu họ tộc vào dịp tế lễ rằm tháng giêng năm Tân Sửu tại nhà thờ chi III, làng Khổng Yên. Các gia đình đầu đinh đời 11, 12, có thể cả đời 13; các gia đình con, cháu ngoại có nhu cầu, ... sẽ được Ban gia tộc trao, chuyển sách. Mọi sự đóng góp, ủng hộ kinh phí sẽ dành cho việc in sách, còn dư sẽ chuyển vào quỹ thờ phụng tổ tiên của chi họ.
Trên cơ sở bản in Tộc phả đã phát hành, Ban biên soạn thực hiện số hóa, đưa bản Tộc phả này lên mạng internet tại trang Web: vietnamgiapha.com nhằm giúp con cháu năm châu, mọi miền có thể tiếp cận được. Rất mong mọi người góp ý, bổ sung thông tin để Tộc phả luôn được cập nhật và ngày càng đầy đủ, chính xác.
Ban biên soạn tuy đã rất nỗ lực, nhưng vì tư liệu cũ vừa thiếu, hư hỏng, tam sao thất bản; con cháu Chi họ lại cư trú rộng khắp năm châu; đặc biệt thông tin để viết về truyền thống họ tộc lại càng thiếu. Vậy nên chắc chắn bản Tộc phả này vẫn còn nhiều thiếu sót, kính mong các thế hệ con cháu họ Nghiêm tiếp tục bổ sung, góp ý để chúng ta có được một cuốn Tộc phả đầy đủ, chính xác và hoàn chỉnh hơn về sau.
VÀI NÉT VỀ TRUYỀN THỐNG CỦA HỌ NGHIÊM CHI III
Thủy Tổ họ Nghiêm Đức Thọ, ông Nghiêm Cương là người học rộng, tài cao, đức hạnh khiêm nhường. Ông thi đậu tứ trường (nho sinh trúng thức - nay là cử nhân), là người đầu tiên đỗ đạt của họ Nghiêm Hòa Xá; làm quan Kinh Doãn (ngang tri huyện), phục vụ ở triều đình, được vua Lê phong tước "Phụng Thiên Phủ Thiếu Doãn", tức phó của Phụng Thiên Phủ Doãn - Trưởng quan về hành chính ở Kinh Sư (theo Đỗ Văn Ninh, Từ điển chức quan Việt Nam, Nxb Thanh niên, tr.681).
Trải qua gần 400 năm tồn tại và phát triển, các thế hệ con cháu họ Nghiêm làng Khổng Yên nói chung và khoảng hơn 200 năm của họ Nghiêm Chi III nói riêng luôn giữ được những nét truyền thống tốt đẹp là "Hết lòng phụng sự quê hương đất nước - Giàu lòng nhân ái - Hiếu học". Truyền thống đó được ghi dấu bởi những tấm gương hoặc việc làm nổi bật của các gia tộc và con cháu trong Chi họ.
1. Do bản gốc Tộc phả họ Nghiêm đạị tôn, họ Nghiêm chi III không còn nguyên vẹn, nên những ghi chép về công danh, sự nghiệp, học vấn của các bậc tiên tổ trong Chi họ không được thật rõ ràng. Tuy vậy, Tộc phả đã cho biết, từ đời Tự Đức năm thứ 31, 32 (1879, 1880) và Đồng Khánh năm thứ 2 (1886), Chi họ ta đã có người được phong tặng Sắc mệnh Chi bảo - ấn tín được Triều đình phong tặng cho những người có hàm từ Cửu phẩm trở lên là quan chức, hoặc thần dân có uy tín cao ở địa phương. Tộc phả họ Nghiêm còn ghi là năm Phúc Kiến thứ 6 (1889), cố Nghiêm Sỹ Dư/ Nghiêm Hữu Dư là Cửu phẩm chính ngạch.
2. Chi họ ta từ xưa đã có thông lệ hàng năm phân định đất đai của họ tộc thành các loại, trong đó có dưỡng lão điền (để phụng dưỡng người già), binh điền (để chia cho gia đình có người đăng lính), học điền (để chia cho người học hành đỗ đạt). Đó là việc làm nhân nghĩa và có ý nghĩa khuyến học rất lớn đối với con cháu. Tộc phả họ Nghiêm còn ghi rõ, năm Tự Đức thứ 31, 32 (1879, 1880), Can Nghiêm Hữu Học phân chia đất đai của Chi họ trình lý trưởng xem xét.
3. "Hữu khai tất tiên" - có mở mang là nhờ tổ tiên. Chính từ tấm gương của tổ tiên với những việc làm nhân nghĩa và có ý nghĩa khuyến học cao cả như đã nêu, mà ở các đời kế tiếp về sau, Chi họ ta đã có nhiều người thành đạt trên con đường phụng sự đất nước, đảm nhận được những vị trí quan trọng trong bộ máy chính quyền và thành công trên con đường học vấn, khoa cử.
4. Từ đầu thế kỷ 20, con đường công danh sự nghiệp và học hành của con cháu họ Nghiêm chi III đã phát triển mạnh mẽ. Đã có hàng chục người con từng giữ các chức vụ lãnh đạo từ cấp vụ cục, sở, huyện trở lên; là sỹ quan lực lượng vũ trang cấp đại tá, cấp tướng giữ các chức vụ chỉ huy từ trung lữ, sư đoàn, cấp Cục và Tổng cục, Tư lệnh binh chủng; có 3 vị Tú tài Tây học đầu tiên và duy nhất của xã; có 01 Phó Giáo sư, 05 tiến sỹ, hàng chục thạc sỹ, giảng viên đại học và hàng trăm cử nhân, kỹ sư, kiến trúc sư, bác sỹ...
5. Gia tộc Cố Nghiêm Hữu Du (Cố Ký) có các ông Nghiêm Tụy, Nghiêm Cần, Nghiêm Đích, ... khá nổi tiếng.
a) Ông Nghiêm Tụy là người sống nhân nghĩa, thường giúp đỡ, cưu mang nhiều bà con họ tộc và làng xóm. Ông được chính quyền giao làm Bang Tá nhưng lại bí mật ủng hộ cách mạng. Do có uy tín, sau năm 1945 ông được chính quyền cách mạng mời ra làm Chủ tịch Mặt trận Liên Việt của huyện Đức Thọ. Ông có nhiều con cháu thành đạt, có nhiều đóng góp cho quê hương đất nước:
- Hai người con trai lớn Nghiêm Ký và Nghiêm Tín là cán bộ lão thành cách mạng, gia nhập Đảng CSVN từ năm 1930, đều tham gia khởi nghĩa giành chính quyền tại Đà Lạt năm 1945. Ông Nghiêm Ký là người có công sáng lập trường Nghĩa Yên Minh Tân tại làng Khổng Yên (1938), là Chiến sỹ thi đua ngành Nông nghiệp cấp tỉnh Hà Tĩnh (1951-1952), được tặng thưởng Huân chương độc lập hạng ba.
- Con trai thứ của ông là Nghiêm Tụng, sinh 1925, trong điều kiện chiến tranh và khó khăn vẫn dày công nuôi dạy cả 6 người con tốt nghiệp đại học, trong đó có 3 người là giáo viên, đóng góp nhiều cho sự nghiệp giáo dục của đất nước;
- Ông Nghiêm Ký có người con trai là Nghiêm Kỳ Hồng, sinh 1946, từng giữ chức vụ Phó Cục trưởng Cục lưu trữ Nhà nước (Bộ Nội vụ); là tiến sỹ Sử học, giảng viên đại học, đã viết và xuất bản hàng chục đầu sách cùng nhiều bài báo đăng tải trên các tạp chí khoa học. Con gái ông là Nghiêm Phương Thảo, đạt học vị Tiến sỹ khoa học máy tính tại Austrailia.
- Con ông Nghiêm Tín là Nghiêm Xuân Đức, sinh 1970, đã giữ chức vụ Phó Chủ tịch UBND, Phó Bí thư Thành Ủy Tp Bảo Lộc, Phó Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Lâm Đồng.
b) Ông Nghiêm Cần (ông Giáo Cần) nổi tiếng hay chữ, làm nghề dạy học.
Con trai ông là Nghiêm Trúc, sinh 1915, đỗ Tú tài Tây học, tốt nghiệp Trường Giao thông đường Sắt Sài Gòn. Ông hoạt động trong phong trào công nhân tại Nhà máy Diêm Bến Thủy, tại đồn điền Cao su Dầu Tiếng và Thủ Đức. Năm 1945 ông được cử làm Hiệu trưởng trường Trung học Trần Phú, trường trung học đầu tiên giảng dạy bằng chữ Quốc ngữ do chính quyền Cách mạng huyện Đức Thọ quản lý. Ông là một trong những người sáng lập và xây dựng trường Nghĩa Yên Minh Tân tại làng Khổng Yên. Con trai ông là Nghiêm Sỹ Bồi, sinh 1949, học giỏi nổi tiếng, được du học tại Liên Xô. Ông từng phục vụ quân đội đến cấp hàm trung tá, sau chuyển ra làm về lĩnh vực Biên tập, xuất bản sách báo ở Ban Tuyên giáo Trung Ương; là hội viên Hội Nhà văn, Hội Nhà báo Việt Nam, đã xuất bản hàng chục tác phẩm thơ, thơ dịch, tản văn, truyện ngắn với bút danh Nghiêm Huyền Vũ.
c) Gia đình ông Nghiêm Đích là gia đình tiêu biểu nhất về việc phụng sự cho quê hương, đất nước. Khó tìm thấy gia đình nào trên đất nước Việt Nam mà cùng thời điểm năm 1972, có tới 5 người là con trai và cháu nội cùng tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu trên cùng mặt trận Trị Thiên - Huế: Tại mặt trận Quảng Trị năm 1972, (1) ông Nghiêm Nghị (Nguyễn Chí Điềm), là đại tá, tư lệnh Đặc Công, tham gia tại Bộ chỉ huy mặt trận; (2) ông Nghiêm Kình, là Trung tá, Phó CN chính trị sư đoàn 320B; (3) ông Nghiêm Trình, là Đại úy, chỉ huy một đơn vị xe tăng của mặt trận; và cháu nội đích tôn, (4) ông Nghiêm Sỹ Chúng, là chuẩn úy, kỹ sư vũ khí vừa tốt nghiệp trường Đại học kỹ thuật Quân sự, làm trợ lý Kế hoạch Ban hậu cần e202 Bộ binh cơ giới. Cùng thời điểm đó, (5) ông Nghiêm Sỹ Thái là phóng viên chiến trường tại mặt trận Thừa thiên Huế (từ 1965).
Con cháu ông Nghiêm Đích có nhiều người thành đạt:
- Ông Nghiêm Nghị, sinh 1920, đỗ bằng Thành chung (Diplome) với môn luận văn xuất sắc bằng tiếng Pháp, được các giáo sư người Pháp cho 19 điểm 3/4; là người có công sáng lập trường Nghĩa Yên Minh Tân tại làng Khổng Yên (1938). Ông rất tích cực và nổi trội trong các hoạt động văn hóa, xã hội những năm 1936-1939 ở địa phương.
Ông tham gia hoạt động cách mạng gần 10 năm tại Lâm Đồng và Nam Trung bộ, tham gia giành chính quyền và được cử làm Chi đội trưởng Giải phóng quân Đà Lạt; từng làm Tỉnh đội trưởng Bình Thuận, liên Trung đoàn trưởng các trung đoàn 81, 82 và 812 cực Nam Trung bộ. Về sau, ông làm Lữ trưởng lữ đoàn dù 305, Sư trưởng sư đoàn 305, đại tá - Tư lệnh Bộ đội Đặc công đầu tiên của Việt Nam. Ông mất năm 1976, được công nhận là liệt sỹ.
Con trai cả của ông là Nghiêm Sỹ Chúng, sinh 1945, Thiếu tướng QĐ, từng giữ các chức vụ Cục trưởng Cục Kỹ thuật QK1, Phó Chủ nhiệm -Tham Mưu trưởng Tổng cục Kỹ thuật QĐ NDVN. Ông là một cán bộ giỏi, một vị tướng tài, sáng của ngành Kỹ thuật Quân đội.
- Ông Nghiêm Kình từng là Phó bí thư Thanh niên cứu quốc tỉnh Hà Tĩnh, đã giữ các chức vụ trong Quân đội như: Phó Chính ủy, Chính ủy Trung đoàn 95 (f325, 1954-1957), Trưởng ban Tuyên huấn khu V- mặt trận Tây Nguyên, Chính ủy Đoàn 32, Chính ủy các Trung đoàn 66 và 9B (f304), Phó CN chính trị f320B. Ông nổi tiếng là một chính ủy tài ba, được nhà văn Nguyễn Minh Châu lấy làm nguyên mẫu cho nhân vật Kinh trong tiểu thuyết "Dấu chân người lính". Ông là liệt sỹ, hy sinh tại chiến trường Thành cổ Quảng Trị năm 1972.
Con trai cả của ông là Nghiêm Triêu Dương, sinh 1958, Thiếu tướng Công an, từng giữ các chức vụ Phó Cục trưởng tại Tổng cục An ninh, và Tổng cục An ninh đối ngoại; Phó Viện trưởng Viện Chiến lược- Khoa học thuộc bộ Công an.
- Ông Nghiêm Sỹ Thái, sinh 1942, tốt nghiệp ngành ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội năm 1965; làm phóng viên chiến trường, Trưởng phân xã Thông tấn xã Giải phóng Thừa Thiên - Huế (1965-1975), có hàng trăm bài báo, bức ảnh quý về mặt trận Thừa Thiên - Huế. Sau 1975, ông làm Trưởng phân xã Thông tấn xã Việt Nam tại tỉnh Lâm Đồng.
- Bà Nghiêm Thị Nhiệm, sinh 1945, tốt nghiệp khoa toán Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1968; là giáo viên toán cấp 3, đã có nhiều cống hiến cho sự nghiệp giáo dục của tỉnh Hà Tĩnh thời kỳ chiến tranh, và cho tỉnh Thừa Thiên Huế sau 1975. Bà còn là một người yêu thơ, hay làm thơ và có nhiều bài thơ hay, vơi bút danh Hà Hải Anh.
- Ông Nghiêm Truật có con gái là Nghiêm Phương Thảo, 1985, bác sỹ đa khoa, đạt học vị Tiến sỹ Y khoa tại Cộng hòa Pháp.
d) Ông Nghiêm Trang là người dấn thân, vào Đà Lạt lập nghiệp từ năm 1923 và thành đạt. Ông sống nhân nghĩa, có công đóng góp xây dựng Trường Nghĩa Yên Minh Tân tại làng Khổng Yên ở quê; có công lập nên "Hội tương tế Ấp Nghệ Tĩnh" tại Đà Lạt đầu những năm 1930; đã cùng Hội cưu mang, giúp đỡ được nhiều bà con họ hàng, đồng hương vào Đà Lạt lập nghiệp, tạo nên cộng đồng Nghệ Tĩnh đông đảo tại đây.
Ông có con trai là Đại tá Nghiêm Túc, Phó Tổng biên tập báo Quân đội Nhân dân (1980-1986).
6. Gia tộc Cố Nghiêm Cửu (Cố Hiềng) cũng có nhiều con cháu khá nổi bật:
a) Con cháu ông Nghiêm Hành có các ông Nghiêm Sỹ Tịnh và Nghiêm Ứng đều đậu bằng Primaire thời thuộc Pháp; là những giáo viên kỳ cựu từ đầu những năm 1950, cả đời làm nghề dạy học cho nhiều thế hệ học trò trong tỉnh. Ngoài ra, còn ông Nghiêm Trung Trực, là một người thông minh, tốt nghiệp đại học Kinh tế Quốc dân năm 1963.
Ông Nghiêm Ứng có con trai cả là Nghiêm Hồng Giang, sinh 1957, Đại tá - Kỹ sư, tốt nghiệp Học viện Kỹ thuật Quân sự. Ông là cán bộ cao cấp Quân đội, từng giữ chức vụ Phó trung đoàn trưởng - Tham Mưu trưởng Trung đoàn Công binh 83 Hải Quân, có hơn 10 năm trực tiếp tham gia xây dựng các công trình chiến đấu, công trình Quốc phòng trên Quần đảo Trường Sa.
b) Ông Nghiêm Thưởng, sinh 1912, đỗ Tú tài Tây học năm 1937, tốt nghiệp Sỹ quan Võ bị Sơn Tây. Ông phục vụ trong Quân đội Pháp 3 năm nhưng đồng thời hoạt động cách mạng. Năm 1945 tham gia giành chính quyền tại huyện Đức Thọ, được cử làm Chi đội trưởng Chi đội Giải phóng quân tỉnh Hà Tĩnh, rồi Tư lệnh giải phóng quân tỉnh Hà Tĩnh (1945-1946). Ông nổi tiếng với chiến thắng trong trận tiến công quân Pháp ở Napê (Lào) của lực lượng vũ trang Hà Tĩnh, Nghệ An, đập tan âm mưu của quân Pháp định dùng Napê làm bàn đạp tấn công Việt Nam từ phía tây. Về sau, ông làm Trưởng ty Thuế vụ tỉnh Hà Tĩnh.
c) Ông Nghiêm Sỹ Sành, sinh 1914, thông minh và học giỏi nổi tiếng, đỗ đầu kỳ thi tiểu học (Primaire) tỉnh Hà Tĩnh, được khen thưởng lớn và được làng cử đại diện vào Tỉnh đón rước về. Ông đỗ Tú tài toàn phần Tây học năm 1935, tốt nghiệp Trường Giao thông đường sắt Sài Gòn; làm Trưởng ga Mương Mán, Chánh thanh tra đường sắt Trung bộ; là một trong những người có công lớn trong việc thành lập và xây dựng Trường Nghĩa Yên Minh Tân của làng Khổng Yên. Năm 1945, tham gia giành chính quyền tại Phan Thiết. Ông thông thạo 4 thứ tiếng: Pháp, Anh, Nga, Trung, là đồng tác giả của cuốn Từ điển Anh-Việt (60.000 từ) do Nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành năm 1975.
Các con của Ông đều học giỏi, thành đạt. Tiêu biểu có bà Nghiêm Hoài An, giảng viên Đại học Giao thông Vận tải, Tiến sỹ cơ khí ở Tiệp Khắc, là vị Tiến sỹ đầu tiên của Chi họ; và ông Nghiêm Sỹ Thương, giảng viên cao cấp Đại học Bách khoa Hà Nội, Phó Giáo sư-Tiến sỹ kinh tế, là vị Phó Giáo sư đầu tiên của Chi họ (2010).
d) Con ông Nghiêm Nho có ông Nghiêm Sỹ Luyện, sinh 1938, là kỹ sư giao thông. Ông là hội viên Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Tĩnh, đã xuất bản nhiều tập thơ, với bút danh Diệu Chi, trong đó có những bài đạt giải nhất, nhì của Hội VH-NT tỉnh. Ông có con trai cả là Nghiêm Sỹ Đống, sinh 1969, tốt nghiệp ngành ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội, hiện là Tỉnh ủy viên, Tổng biên tập Báo Hà Tĩnh.
7. Gia tộc Cố Nghiêm Hữu Lý có ông Nghiêm Oánh, sinh 1934 (con ông Nghiêm Hữu Châu):
Ông có hơn 10 năm đứng lớp dạy vỡ lòng tại làng Khổng Yên từ cuối những năm 1950; là giáo viên vỡ lòng giỏi, uy tín cao, đã truyền dạy kiến thức, giúp cho nhiều thế hệ con cháu trong làng được học hành, thành đạt. Về sau, ông làm việc trong chính quyền xã, đảm nhiệm đến chức vụ Phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã Đức Yên.