GIA

PHẢ

TỘC


-
BẾN
TRE
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
VIẾT VỀ GIA SỬ CỦA DÒNG HỌ

 


 CÁC VỊ “TIẾN SĨ VÕ”
Tức TẠO SĨ họ VŨ đời Hậu Lê(Từ năm Đinh Mùi 1727 đến năm Ất Tị 1785) 


VŨ HIỆP
sưu khảo-
Người nghiên cứu về gia - tộc - học Việt Nam
Biên soạn năm 1998
 


Tạo sĩ là học vị cao nhất về Võ khoa đời xưa. Nó là Tiến sĩ Võ và cũng phải trải qua các khoa thi võ nghệ từ thấp lên cao, thường phải đậu Sơ cử (tức là Cử nhân Võ) xong mới được vào thi Bác cử để lấy Tạo sĩ. Kỳ thi Sơ cử (Cử Võ) và Bác cử cũng phải thi viết lý thuyết khá gay go qua các kỳ thi. Do đó Tạo sĩ phải khá giỏi về chữ nghĩa văn hóa mới đọc được binh thư, kinh điển và làm được văn bài sát hạch trong khoa thi Tiến sĩ Võ. Vì thế, Tạo sĩ tuy rất giỏi thập bát ban võ nghệ và trải qua nhiều pha thi đấu các loại binh khí và coi như được xếp vào hàng võ nghệ cao cường rồi. Triều đình và Binh Bộ còn bắt các thí sinh phải lầu thông kinh sử, binh pháp và sách Tứ Thư, Ngũ Kinh, Bắc Sử, Nam Sử nữa, bằng cách trả lời qua văn bài các câu hỏi rất chi tiết về chính trị, quân sự thời xưa và hiệntại khá ngoắt ngoéo để thử tài kiến thức, văn hóa của thí sinh võ. Ai có giỏi chữ nghĩa, thông hiểu các sách Tôn Ngô binh pháp, Hổ Trướng xu cơ, Binh thư yếu lược, Kinh, Sử, Tử, Tập,… mới viết được các bài văn nghị luận có cơ sở võ lược, chính trị quân sự xuất sắc. Như thế Tạo sĩ đời Hậu Lê cũngnhư triều Nguyễn (thế kỷ 18 và 19) là các bậc văn võ kiêm toàn cả. Đậu Tạo sĩ xong thường trở thành các tướng lĩnh và giữ chức vụ quan trọng ngoài biên ải, các Trấn, Doanh hoặc Võ quan cao cấp trong triều đình. Do đó, Tạo sĩ cũng được rước vinh quy bái tổ long trọng không kém gì Tiến sĩ. Tên tuổi cũng được ghi vào sử sách, tạc vào bia đá ở Võ miếu để lưu danh muôn đời sau. Nhưng xưa khia, trong xã hội Nho học, thường có quan niệm và thành kiến “Trọng văn khinh võ” nên đã có câu ca dao như sau :

“Văn thì ngũ phẩm đã sang
Võ thì tam phẩm còn mang gươm hầu”

Vì thế sách vở xưa để lại thường ít quân tâm đến các võ khoa và ít chép lại những danh sách Võ cử, Tạo sĩ, như các bảng sĩ tử trúng cách Hương cống, Cử nhân, Tiến sĩ trong các khoa thi văn (Hương thí, Hội thí, Đình thí). Vì vậy, sưu tầm được danh sách các vị đậu Võ khoa đời xưa cũng rất khó khăn.

May sao, trong các cổ thư chữ Hán để lại còn có một bản nhan đề : “Lê Triều Tạo sĩ Đăng Khoa Lục”, không đề tên tác giả. Nay ở trong kho sách Hán Nôm còn có bản ký hiệu A. 1176, đã cung cấp cho đời sau chúng ta một danh sách gồm hơn 200 vị Tạo sĩ, Đồng Tạo sĩ thuộc đời Hậu Lê, từ năm Thái Bảo thứ 5, khoa Giáp Thìn – 1724 đến khoa Ất Tỵ - 1785 (61 năm) đời vua Cảnh Hưng (Hiển Tông) thứ 46. Sách này ra đời triều Gia Long.

Trong số này chúng tôi đếm được 21 vị Tạo sĩ và Đồng Tạo sĩ họ Vũ. Đặc biệt, dòng họ Vũ (Võ) ở làng Hà Hoàng thuộc huyện Thạch Hà (Nghệ Tĩnh) vốn tổ tiêngốc ở làng Hoa Đường, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, Hải Dương đã đậu Tạo sĩ, Đồng Tạo sĩ tới 16 người. Vì thế mà ở vùng Thanh, Nghệ thời xưa đã ca ngợi họ Vũ (Võ) của làng Hà Hoàng rằng : “NGƯỜI NGHỆ AN, GAN HÀ HOÀNG” và “TRẢO NHA CHI NGÔ, THẠCH HÀ CHI VŨ” (Họ Ngô ở Trảo Nha, họ Vũ ở Thạch Hà có nhiều người tài giỏi) và tônvinh dòng họ Vũ (Võ) đó là “THẠCH HÀ THẾ TƯỚNG” có nghĩa là : “đời đời nối tiếp nhau làm tướng là dân ở xã Hà Hoàng huyện Thạch Hà”. Theo lời truyền tụng và gia phả của họ “VÕ TÁ” xã Hà Hoàng thì đã sản sinh ra hơn 36 võ tướng có công nghiệp hiển hách, trong đó có tới 20 vị là Quận công thời Hậu Lê. Chi họ VÕ TÁ đó có nguồn gốc từ họ “VŨ TÁ” ở xã Hoa Đường và cũng từ ở Mộ Trạch (Hải Dương) mà ra.

Sau đây là danh sách 21 vị đậu Tiến sĩ Võ = Tạo sĩ họ trong khoảng 58 năm (1729 – 1785) mà sử sách còn chép để lại, đánh dấu một giai đoạn lịch sử huy hoàng võ nghiệp của các vị Tạo sĩ, Đồng Tạo sĩ họ . Đây là chưa thể thống kê nổi trong mấy trăm năm khoa cử về võ nghệ của nhà Trần, nhà Hồ, nhà Lê, thời Lê Trịnh và Hậu Lê. Nhà Nguyễn (1225 – 1919) có bao nhiêu danh tướng mạng họ (Võ). Chúng ta lần lượt thống kê các Tạo sĩ họ , chỉ trong 60 năm theo thứ tự niên đại như sau :

1.           
VŨ KHÚC LÂM : Đậu Tạo sĩ khoa năm Đinh Mùi 1727, niên hiệu Bảo Thái thứ 8 (đời Vua Lê Dụ Tông 1706 – 1729) thời chúa An Đô Vương Trịnh Cương cầm quyền. Ông Khúc Lâm quê ở xã Vương Xá, huyện Cẩm Giàng, trấn Hải Dương (phủ Thượng Hồng). Chưa rõ sự nghiệp của Ông.

2.           
VŨ TÁ ĐỨC và VŨ TÁ TỔNG : Thuộc dòng họ Vũ Tá ở xã Hà Hoàng, tổng Thượng Thất, huyện Thạch Hà, phủ Hà Hoa, trấn Nghệ An (nay thuộc về tỉnh Hà Tĩnh, gần thị xã). Ông Tá Đức đậu Tạo sĩ bậc “trúng Hạng” (thứ ba” khoa thi Võ Tiến sĩ năm Vĩnh Khánh thứ ba (đời vua Lê Duy Phương) tức khoa Tạo sĩ năm Tân Hợi (1731) thời chúa Trịnh Giang. Còn ông Tá Tổng đậu Tạo sĩ bậc “thứ Trúng” (thứ tư” cùng khoa với ông Tá Đức. Sự nghiệp của 2 ông này cũng như tất cả các Tạo sĩ họ “Vũ tá” dưới đây (tiếp theo) phải xem trong “THẠCH HÀ, HÀ HOÀNG VÕ TÁ TỘC PHẢ” mới rõ vậy. Nếu có cơ hội thuận tiện nào, sẽ sưu tầm và nghiên cứu sau?

3.           
VŨ TÁ TRUNG : Cùng dòng họ Vũ Tá nổi danh như đã chép rõ nguyên quán ở trên. Ông Tá Trung cũng đậu Tạo sĩ bậc “trúng Hạng” (hạng ba) trong khoa thi Tạo sĩ năm Vĩnh Khánh thứ 5, Quý Sửu (1733) đời vua Lê (Duy Tường) Thuần Phong (1732 – 1735) thời chúa Trịnh Giang. Chưa rõ sự nghiệp của ông ra sao?

4.           
VŨ TÁ TÍN : Đậu Tạo sĩ khoa thi Bính Thìn (1736) đời vua Lê (Duy Thìn) Ý TÔNG (1735 – 1740) niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 2 thời chúa Trịnh Giang. Chưa rõ sự nghiệp của ông thế nào?

5.           
VŨ TÁ THỤY và VŨ TÁ CƠ : cả hai ông cùng một dòng họ Vũ xã Hà Hoàng, đậu Tạo sĩ cùng một khoa thi năm Vĩnh Hựu thứ 5 đời vua Lê Ý Tông và Trịnh Giang; Đó là năm Kỷ Mùi (1739). Chưa rõ sự nghiệp của 2 ông Tạo sĩ này.

6.           
VŨ QUỐC CAN : Nguyên quán làng Đôn Thư, tổng Thì Trung, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam Thượng (sau thuộc Hà Đi6ng, Hà Tây) trong một gia đình họ Vũ có truyền thống khoa bảng văn học nổi tiếng. Ông Can đậu Tạo sĩ bậc “trúng Hạng” (thứ ba) khoa thi Tạo sĩ năm Nhâm Thân (1752) niên hiệu Cảnh Hưng thứ 13 (đời vua Lê Huy Diêu, Hiển Tông) thời chúa Trịnh Doanh cầm quyền (1740 – 1767). Không rõ sự nghiệp của ông Quốc Can ra sao? Có thể tra cứu trong Vũ Tộc phả xã Đôn Thư (Thanh Oai) sẽ biết.

7.           
VŨ TÁ KIÊN : Đậu Tạo sĩ bậc “trúng Hạng” ở kỳ thi năm Giáp Tuất (1754) đời vua Lê Cảnh Hưng (Hiển Tông – Duy Diêu) năm thứ 15. Ông Tá Kiên đậu thủ khoa kỳ thi này. Sự nghiệp của ông ra sao chưa rõ.

8.           
VŨ ĐĂNG KHOA : Cũng cùng đậu tạo sĩ đồng hạng 3 (trúng Hạng) với ông Tạo sĩ Tá Kiên, nhưng đứng thứ nhì. Quê của ông Đăng Khoa ở xã Kim Lan, tức xã Kim Quan cũ, thuộc huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương. Chưa rõ sự nghiệp của ông.

9.           
VŨ TÁ THẠC : Đậu Tạo sĩ hàng nhì bậc thứ tư (thứ Trúng) khoa thi năm Cảnh Hưng thứ 18, Đinh Sửu (1757) đời vua Lê Hiển Tông, thời chúa Trịnh Doanh cầm quyền. Chưa rõ sự nghiệp của ông.

10.      
VŨ TÁ BẬT : Đây là vị Tạo sĩ họ “Vũ Tá” thứ 9 làng Hà Hoàng. Ông đậu khoa Qúy Mùi (1763) niên hiệu Cảnh Hưng thứ 24 đời vua Lê Hiển Tông (1740 – 1786), lúc Trịnh Doanh vẫn cầm quyền. Chưa rõ sự nghiệp của ông, chỉ biết ông đậu tạo sĩ thư 4 bậc bốn (thứ Trúng)

11.      
VŨ TẤT NHÂM : Cùng đậu một khoa thi với ông Tạo sĩ Tá Bật năm 1763. Nhưng ông Tất Nhậm đậu hạng Đồng tạo sĩ hạng ưu Trúng. Quê quán ở xã My Thử, tổng Tông Tranh, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương. Ông là dòng dõi họ Vũ Tất của vợ chúa Trịnh Cương (Vũ Thái Phi)

12.      
VŨ TÁ THÌ : Cũng là dòng họ Vũ (Võ) ở Hà Hoàng, ông Tá thì đậu Tạo sĩ loại thư 3 trúng Hạng, khoa Bính Tuất (1766) niên hiệu Cảnh Hưng 27 (đời vua Lê Hiển Tông – chúa Trịnh Doanh).

13.      
VŨ TÁ KIÊU, VŨ TÁ DAO và VŨ TÁ DỰ : Ba ônghọ Vũ Tá cùng đậu Tạo sĩ một khoa Nhâm Thìn (1772) đời vua Cảnh Hưng – chúa Trịnh Sâm. Khoa này có 23 vị Tạo sĩ đậu thì chi họ Vũ Tá chiếm 3 vị.

14.      
VŨ ĐÌNH KHANH : Đậu tạo sĩ thư 5 khoa Bính Thân (1776), quê quán làng Tiên Cầu, huyện Kim động, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam Thượng (nay là tỉnh Hưng Yên) năm 1977 ôngbị xóa tên trong bảng đậu Tạo sĩ vì mang sách vào trường thi trong ngày phúc hạch.

15.      
VŨ TÁ CANH : Đậu Đồng Tạo sĩ khoa Kỷ Hợi (1779) gọi là “Thịnh Khoa” đời vua Lê Cảnh Hưng thứ 40 – chúa Trịnh Sâm. Quê ông Tá Canh ở xã Hoa Đường, huyện Đường An,phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay là làng Lương Ngọc, huyện Bình Giang, Hải Dương). Vốn là gốc tích của họ Vũ Tá ở làng Hà Hoàng, huyện Thạch Hà, trấn Nghệ An, nay thuộc Hà Tĩnh. Đấy là nét son cho họ Vũ Tá nói chung, đã hiển danh về võ nghiệp và có truyền thống rất thượng võ, nhiều đời.

16.      
VŨ TÁ SIÊU và VŨ TÁ VIÊM : Cùng chi họ ở xã Hà Hoàng tại huyện Thạch Hà (Nghệ An). Cả 2 ông Tạo sĩ họ Vũ Tá này đều đậu Tạo sĩ hạng tư khoa thi năm tân Sửu (1781), niên hiệu Cảnh Hưng thứ 42 (đời vua Lê Hiển Tông : Duy Diêu và chúa Trịnh Sâm.

Xem như thế , đủ thấy họ Vũ (Võ) chẳng những phát về khoa bảng văn học mà còn phát triển cả về võ nghiệp. Đây là chúng ta mới tìm ra tên các vị tạo sĩ họ Vũ trong khoảng 55 năm / đời Hậu Lê (từ năm 1727 – 1781), chỉ trong phạm vi “xứ Đàng Ngoài” trong hơn nửa thế kỷ. Trong cả một quá trình hơn 500 năm trước đó (từ đời Trần, Hồ, Lê, Mạc) và sau đó là nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn hơn 100 năm nữa, có các kỳ thi võ nghệ, đã phải có đến hàng trăm ông đỗ tương đương Tạo sĩ, Cử võ họ Vũ tham gia việc quốc phòng, an ninh cho các triều đại mà rất tiếc đến nay chưa thể thống kê được đầy đủ! Có lẽ đây là một đề tài nghiên cứu cho một công trình khoa học  lịch sử quốc phòng đời xưa ở nước ta nói chung và cho tộc đoàn họ Vũ (Võ) cả nước nói riêng. Hy vọng lớp trẻ tài năng sau này sẽ làm được đề tài trên.
 







HUYỀN TÍCH VÀ LỊCH SỬ VŨ HỒN – THUỶ TỔ,
THẦN TỔ HỌ VŨ (VÕ) Ở MỘ TRẠCH


Tiến sĩ Vũ Duy Mền


Những năm gần đây ở trong nước ta dấy lên phong trào tìm về nguồn cội. Các họ mạc ở làng quê đua nhau tìm lập lại gia phả, sửa sang lại từ đường, mong cố kết dòng họ, cộng đồng. Những danh vọng tộ còn giữ được gia phả thì dịch ra chữ quốc ngữ, hoặc tục biên để phổ biến rông rãi cho con cháu biết được thế thứ ông cha và truyền thống tốt đẹp của tổ tiên mà phát huy trong cuộc sống ngày nay. Họ Vũ ở làng Mộ Trạch (làng Tiến sĩ nổi tiếng nhất ở xứ Đông và trong nước trước kia), nay thuộc xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương là một trong những dòng họ lớn ở Việt Nam cũng không nằm ngoài trào lưu trên. Song việc trở về nguồn quả thật không đơn giản, nhiều vấn đề đặt ra rất phức tạp. Chẳng hạn xưa nay họ Vũ đều coi Vũ Hồn là thủy tổ, thần tổ của họ mình; một trong những cơ sở để họ tin tưởng, dựa vào huyền tích dưới đây:


I.          Huyền tích về Vũ Hồn.


Tài liệu thư dịch dân gian đầu tiên chép về Vũ Hồn đó là bản ngọc phả lưu ở miếu thờ thần tổ Vũ Hồn làng Mộ Trạch. Bản ngọc phả này có thể sao lại từ  bản được nội các Bộ Lại sao vào ngày tốt, tháng trọng thu (tháng 8), năm Vĩnh Hựu thứ 6 (1740) từ chính bản do Hàn lâm lễ viện, Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính soạn vào ngày tốt, tháng mạnh xuân (tháng Giêng) năm Hồng Phúc nguyên niên (1572). Bản sao ngọc phả hiện nay có thể thuộc thế hệ thứ 6 hoặc thứ 7 ?


Ngọc phả có đoạn viết:…Năm Tân Mùi, thời Đường, Đức Tông đặt Triệu Xương làm (Giao Châu) Đô hộ (sứ), lúc đó có một người ở phủ Thường Châu (Trung Quốc) gia truyền y bát, nối được nghiệp nhà tên là Vũ Công Huy; đường làm quan của ông hiển đạt. Vợ cả là Lưu Thị Phương đã ngoài 60 mà trong mộng chưa thấy hùng bi, ngoài cửa chưa treo cung hồ thỉ (chưa có con trai). Cảnh muộn mằn khiến ông buồn rầu không vui, thường than rằng; Vàng núi, thóc bể khinh như cỏ rác; con hiếu cháu hiền trọng như vàng ngọc. Ông bèn tạ ơn triều đình trả chức xin hồi hương. Vua Đường chuẩn y, lại cấp cho ông xe ngựa, châu báu. Ông về quê sống cảnh ab nhàn cùng làng xóm. Ông lại tinh thông phong thủy, thong hiểu phép địa lý chính tông.


Lại có thuyết nói rằng: Có thời gian ông (Huy) sang Nam Việt vãng cảnh sơn thủy, khi đến trang Mạn Nhuế, thuộc huyện Thanh Lâm, trấn Hải Dương thấy một khu đất có thế sơn thủy bao quanh, long hổ cùng chầu lại. Ông lập tức quay về đem cốt của tổ tiên sang táng vào khu đất ấy tại xứ Đống Già (tức Đống Rờm).


Thủa ấy ở trang Mạn Nhuế có người con gái tên là Nguyễn Thị Đức tuổi vừa đôi tám, tính hạnh đoan trang, ngôn dung uyển nhã; nếp nhà thi lễ, truyền đã nhiều đời.Ông lấy làm bằng lòng mà yêu. Tự nói rằng: Nàng mày ngài, má đào, lưng liễu dáng vẻ như tiền thực là quốc sắc. Phúc địa (đất phúc) sinh phúc nhân quả không sai.


Ông bèn mượn hồng điệp đưa mối cầu hôn. Nàng tới tuần cập kê, thật là thiên lý kỳ duyên. Hai người cùng nhau kết tóc se tơ thành chồng vợ. Từ đó ông tạm cư ngụ ở nơi quê ngoại.


Được hơn một năm, có lần Nguyễn Thị Đức mộng thấy người thần đem quả đào tiên, nàng nuốt lấy; sau tỉnh dậy rồi nói chuyện với chồng. Ông nói rằng: Đó là điềm lành. Vợ chồng bèn đưa nhau về Bắc quốc.


Từ đó Nguyễn Thị Đức mang thai. Đến ngày 8 tháng giêng, năm Giáo Thân, đêm ấy có một đám mây vàng hình tròn như chiếc tán che phủ trước sân, rủ xuống tới đất. Nguyễn Thị sinh hạ một thần nhi, thiên tư tuấn tú, khí chất hiên ngang, mày vua Nghiêu, mất vua Thuấn, lưng vua Vũ, vai vua Thang, dáng vẻ thật lạ thường. Ông bèn đặt tên cho con là Hồn.


Bảy tuồi Hồn đi học; sách vở xem qua một lượt là nhớ hết. Mười hai tuổi đã tinh thông văn chương, qua cửa Trình, Chu, học lực vượt hơn họ Âu (Âu Dương Tu), họ Tô (Tô Đông Pha), thi tài cùng ông Lý (Lý Bạch), ông Đỗ (Đỗ Phủ). Lại còn dốc chí cung tên hay đọc binh thư, tinh thông văn võ, rõ là bậc anh tài.


Năm 16 tuổi thi Đình , vua ( Đường ) xét Hồn là bậc ky tài , học lực tinh thông, trên thông thiên văn dưới tường địa lý, không việc gì, vật gì mà không biết không hiểu. Vua cho đó là nhân tài bật nhất của thiên hạ, phong cho làm chức quan Lễ bộ tả thị lang; ban cho xe ngựa, mũ áo về vinh quy. Vũ hồn về bái tạ từ đường tổ tiên; sau đó lại hồi triều nhậm chức.


Được hai năm thăng làm Đô đài ngự sử, hơn năm sau nhận mệnh của vua Đường lấy tên là Hàn Thiều nhậm chức Giao Châu Thứ sử vào thời Đường,Kinh Tông năm Bảo  Lịch nguyên niên (825). Đến thời Đường, Vũ Tông năm Hội Xương nguyên niên  (841) ; Vũ Hồn được tiến thăng An Nam Đô hộ Kinh lược sứ thay người tiền nhiệm là Hàn Ước (Thay Mã Thực ) .


Khi ngài phụng chiếu đến Nam Việc tuần thú,  kính lý thiên hạ đã đến trang Mạng Nhuế, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương – tên cổ là Hồng bộ, sau đổi là Dương Tuyền . Ngài vào làm lễ bái yết mộ tổ. Lại đi đến trang Khả Mộ, huyện Đường An, phủ Bình Giang thấy trang ấy sơn thuỷ hữu tình, long trầu hổ ấp, nội sào ngoại sào, tả phù hữu bật, năm con ngựa chầu đằng trước, bảy ngôi sao chiếu đằng sau, thần đồng đứng hai bên, bảng bút bày sẵn thật là nơi đất phát tổ Tiến sĩ .Ngài bàn vẽ thành địa đồ (cắm đất).


Khi trị nhậm ngài chủ trương đắp La Thành kiên cố. Bèn sai tướng sĩ tiến hành gấp công việc không kể ngày đêm. Nhân do quân ở phủ làm loạn, ngài phải bỏ phủ thành chạy về Quảng Châu.Giám quân Đoàn Sĩ Tắc tiếp quản mà vỗ yên loạn binh, phủ thành lại ổn định.Đến năm Bính Dần, Hội Xương năm thứ 6 (846) người Man Nam Chiếu vào cướp phủ thành. Ngài lên một chiếc xe nhẹ về Bắc quốc xin lệnh của vua. Vua Đường sai Bùi Nguyên Dụ làm Kinh lược sứ, xuất binh đánh bại người Man Nam Chiếu. Được một năm vua xuống chiếu đảm đương nhiệm quốc gia, sẽ báo đáp sau. Nay muốn ông (Hồn ) về triều cùng nhau yến tiệc thân tình, đàm thoại mưu kế. Oâng cho rằng, người xưa được một ngày nuôi cha mẹ, dẫu làm quan Tam công.( Thái sư, Thái phó, Thái bảo ) cũng không sướng bằng. Tôi nay còn có mẹgià há nên tham muốn giàu sang mà không nghỉ đến sự hiếu dưỡng hay sao?Bèn dâng biểu xin từ quan, nộp lại chức về nhà nuôi dưỡng mẹ già. Vua thuận tình ban cho tiền vàng, gấm vóc.


Vâng mệnh vua, ngài về ngay quê nhà đón mẹ già sang sống ở Việt Nam ; cho thiết lập một lâu đài ở Thượng khu , trang Khả Mộ làm nơi phụng dưỡng mẹ già và khyến bảo nhân dân chuyên làm điều lợi trừ việc hại . Dân điều có lễ nghĩa, nhà  nhà giàu thịnh; đấy là công đức của ngài vậy. Dân đều  chịu ơn đó và coi ngài như mặt trăng, mặt trời, thân thiết như cha mẹ. Ngài là thuỷ tổ sáng lập nhân dân vậy.


Khi nhân dân làm lễ, nhân đó xin rằng : Nay lâu đài làm chổ ở, về sau làm mộ tự, ngài hứa cho vậy và bảo rằng : Trang khu có hậu thì  phải trọng di mệnh của ta . Vạn năm về sau trang khu không quên thờ cúng . Ngài lại cho thêm 5 nén vàng, tậu ruộng, ao làm việc hậu, cúng tế. Nhân dân đều vâng theo, ưng cho thôn sở tại trông đều và tế tự.


Khi ấy đức thánh Mẫu già, bệnh đã lâu, thuốc không sẵn, cầu đảo thần không hiệu đã mất. Ngài khóc than kêu trời rất thương xót; rước linh cữu lên táng ở trang Kiệt Đặc, huyện Thanh Lâm, (nay thuộc huyện Chí Linh ). Từ đường hương khói được 3 năm thì mãn tang; khi ấy ngài 49 tuổi. Vào ngày 3 tháng 12 khi ngài đang ngồi ở học đường, bổng nhiên trong người thấy bất an, không bệnh mà mất. Táng tại xứ Đống Dị, đầu bản trại. Bỗng  nhiên trời đất tối sầm, mây mù che kín. Một giờ lâu trời quang đã thấy kién mối đùn đắp đất thành một ngôi mộ lớn. Nhân dân và gia thần đều kinh hãi, lập tức đem về đó trình báo lên quan huyện. Huyện quan làm sớ tâu vua. Vua bèn truy nguyên lúc bình nhật, sắc phong làm  phúc thần, lại phong : Đương cảnh thành hoàng, lâu đài cư sĩ, linh ứng Đại vương.


Sắc chỉ cho Thượng khu , trang Khả Mộ lên kinh thành rước mỹ tự về lập miếu phụng thờ; truyền khu cấm địa ấy gọi là Mả Thần, sở tại ức niên hương hỏa, kính vậy thay.


Lại nói rằng:Từ đấy về sau vẫn  thường linh ứng. Các triều đại đế vương đều có sắc phong thêm mỹ tự  cho Đại vương.


Đến đời Trần Nhân Tông, quân Nguyên- Mông xâm chiến nước ta ; kinh thành bị thất thủ; Trần Quốc Tuấn phụng mệnh vua cầu đảo bách thần phù giúp; đức thần tổ ta hiển ứng ngầm giúp ( âm phù ). Khi bình được Ô Mã Nhi, Phàn,Tiếp vua bèn phong thêm mỹ tự cho đại vương: một vị thần thông minh, trí sáng ,mạnh giỏi, cao lớn, đáng thần bậc trên.


Đến thời Lê Thái Tổ khởi nghĩa ở Lam Sơn, bình lũ Mộc Thạnh, Liểu Thăng ở Chi Lăng;10 năm yên được thiên hạ, lại phong thêm mỹ tự ch thần : Giúp đời, yên dân, giúp rất thiêng, ứng lớn, ông thần bậc trên.


Sắc ban  cấp cho Thượng khu; trang Khả Mộ trùng tu miếu vũ, thịnh vượng tốt đẹp thay.


Vâng khai ngày sinh , ngày hóa và chữ húy, nhất thiết không được mạo dùng . Chữ bên tả là bộ thuỷ, chữ bên hữu là bộ quân (ghép lại là chữ Hồn ).


Cho thượng khu , trang Khả Mộ lấy ngày sinh thần 8 tháng Giêng làm chính lệ. Lễ dùng lợn đen, xôi rượu, ca xướng, đánh cờ, đu tiên. Các trò đó chỉ chơi trong 10 ngày.


Ngày hóa của thần là ngày 3 tháng 12 (Chạp) lấy làm chính lệ . Lễ dụng tuỳ nghi, ca xướng thì cấm[1].


Theo ngọc phả thì miếu thờ Vũ Hồn ở trang Khả Mộ có từ khá lâu đời. Vua Trần Nhân Tông đã gia phong mỹ tự cho thần. Trải qua nhiều trùng  tu ngày nay ngôi miếu cổ vẫn còn  ở làng Mộ Trạch. Hiện tại với sự hảo tâm giúp đỡ các nhà tài trợ :Võ Văn Hồng, Vũ Văn Tiền, Vũ Hữu Sâm và nhiều tấm lòng vàng khác ngôi miếu được duy tư và mở rộng xây dựng cảnh quang xung quanh thành một khuôn viên văn hoá bậc nhất của cả họ Vũ. Miếu cổ ba gian, mái ngói, tường xây. Bên trong còn lưu giữ một số bức đại tự: Vạn  thế trạch ( đất vạn đời ); Đường triều đô hộ; duy thần tổ; lai tự Bắc phương (triều Đường Đô hộ, chỉ một thần tổ, đến từ phương Bắc); Giao Châu Đô hộ; ngô ấp thành hoàng (quan Đô hộ Giao Châu, thành hoàng làng ta). Một số câu đối và các đồ thờ . Ở miếu hiện còn 8 sắc phong thần, ghi các niên hiệu  triều vua sau : Cảnh Hưng 1740 – 1767; Chiêu Thống 1787; Tự Đức 1858; Đồng Khánh 1887; Duy Tân 1909; Khải Định 1924; và một sắc phong mất niên đại (có thể là sắc thời Quang Trung ). Các sắc phong trên đều phong thêm mỹ tự cho thần .


Theo lệ làng hàng năm vào ngày 8 tháng Giêng dân làng Mộ Trạch mở lễ hội;  tiến hành tế lễ thần thành hoàng làng – thần tổ họVũ. Theo tục lệ truyền lại mọi người kiêng gọi tên huý của thành hoàng làng: không gọi là Vũ Hồn mà gọi là Vũ Hòn; vong hồn gọi là vong hòn. Dân làng tổ chức rước thần từ miếu đến đình và ngược lại. Đám rước trang nghiêm, ngoạn mục thể hiện thành lòng kính, biết ơn của dân làng đối với vị thần có công khai sáng; luôn ứng giúp dân làng trừ tai, giáng phúc mang  lại cuộc sống bình yên  cho mọi người. Ngày hội làng tưng bừng vừa có ý nghĩa tôn vinh thần, vừa gắn kết cộng đồng làng xóm trong sự nghiệp dựng làng giữ nước .


Ngoài di tích miếu thờ thần tổ Vũ Hồn, ở Mộ Trạch còn truyền giữ được mả thần hay còn gọi là lăng thần ở cánh đồng đầu làng xứ Đống Dị ( gần khu trường PTCS xã Tân Hồng ). Lăng thần là nơi hợp tácVũ Hồn cùng phu nhân mà trong Mộ Trạch Tích Thiện đường ngọc phả có chép đến. Sự thật dưới mả thần có gì ? Chưa ai biết được, họa chăng có sự  can thiệp của các nhà khảo cổ học. Nhưng theo tập quán  của người Việt điều đó ít khi  xảy ra.Thường con cháu đều muốn  giữ yên và muốn làm đẹp mồ mả tổ tiên. Vì lẽ đó năm 1994 Tiến sĩ Vũ Ngọc Thinh Việt Kiều ở Nhật Bản  vốn quê Mộ Trạch nhân chuyến thăm quê đã làm việc thiện xây lại khu lăng thần cao ráo, bề thế hơn trước  mong trường tồn cùng năm tháng. Giờ đây mỗi khi  hội làng kỷ niệm ngày sinh của thần, dân làng đều đến thắp hương ở lăng thần. Những con cháu họ Vũ xa quê lâu ngày, hoặc những người vấn tổ tìm tông có dịp về Mộ Trạch  đều đến dâng hương hoa và lễ mọn  thành tâm cầu nguyện  tại lăng thần .


Cũng theo ngọc phả, thân Mẫu của Vũ Hồn lúc sống được phụng dưỡng ở trang Khả Mộ; khi mất được đem táng tại trang Kiệt Đặc, huyện Thanh Lâm. Nay thuộc xã Văn An, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Đấy cũng là nơi thắng địa, có dãy núi Phượng Hoàng chạy qua .


Ngày nay ở xã Mạn  Nhuế  thuộc huyện Nam Sách,  Hải Dương có mả ở Đống Rờm. Theo ngọc phả và dân gian truyền lại  thì đó có thể là mộ ông nội của Vũ  Hồn. Tương truyền mả ở Đống Rờm táng treo. Hộp đựng cốt bằng tiểu sành được treo trên bốn cột sắt, dựng trong hầm xây. Đến Thời Thành Thái cuối thế kỷ XIX mả treo mới bị sập xuống .


Theo một số tài liệu mả Đống Rờm nhiều lần bị tranh chấp. Nguyên do đến đầu thời Lê (thế kỷ XV ) mộ tổ họ Vũ  bị mất. Sau đó có tham chính Trần Xuân Án người xã An Lạc, huyện Thanh Lâm, trấn Hải Dương nhờ thầy phong thuỷ là Nguyễn Trọng Diệu tìm đất để táng mộ tổ mong con cháu phát phúc . Khi đào Đống Rờm phát hiện tấm bia mộ chí bằng đá ghi : Đường An, Khả Mộ, Vũ Thị tổ mộ - Mộ tổ họ Vũ, ấp Khả Mộ, Đường An. Vì  thế Trần Xuân Án bỏ đi và báo lại  cho người làng Khả Mộ biết . Từ đấy hàng năm con cháu họVũ  làng Mộ Trạch  đi lại thăm viếng, giữ gìn lấy mộ tổ.


Đến Thời Gia Long ( 1802 -1819 ), có bá Gôm, người huyện Tứ Kỳ đem mộ tổ  táng ở Đống Rờm. Dân làng Mộ Trạch đem việc đó kiện lên quan, kết quả đã thắng kiện. Quan phê vào đơn  bốn chữ: Hoàn phụ vi phần – trả lại Đống làm mộ phần. Sau đó làng Mộ Trạch dựng bia đá ở giữa Đống Rờm. Trên bia ghi: Mộ Trạch xã  (ngang ) hai hàng dọc ghi : Vũ tộc tổ mộ và hoàn phụ vi phần.


Năm 1930 hào lý làng Mạn Nhuế cho Tả Hảo người phủ Thường Tín , Hà Đông để mộ tổ vào Đống Rờm. Làng Mộ Trạch lại thêm tốn nhiều tiền để xin Đống Rờm làm đất riêng giữ lấy mộ tổ. Chính quyền sở tại, đại diện là viên công sứ Pháp Matssimi đã bác bỏ đơn của làng Mộ Trạch; nhưng giao cho hương lý xã Mạn Nhuế phải trông nom ngôi mộ ở Đống Rờm. Trong công văn đề Hải Dương ngày 15 tháng 3 năm 1937 Matssimi đã nhầm cho đó là mộ của Vũ Hồn; thực ra đó là mộ của ông nội Vũ Hồn .


Từ đó đến nay con cháu họVũ Mộ Trạch dù còn ở làng hay  đã chuyển cư  đi nơi khác thường được tự do  đến viếng mộ tổ  ở Đống Rờm.


Như vậy những di tích trên: miếu thần tổ, lăng thần, mộ thân mẫu thần,mộ Đống Rờm được ghi trong ngọc phả đều còn lại đến ngày nay. Sự tồn tại song hành giữa ngọc phả và di tích  dễ khiến người ta nữa tin, nữa ngờ . Có thể coi thần phả như những tia ảnh xạ lịch sử về Vũ Hồn, trong đó có những điều gần trùng khớp với lịch sử. Nhưng không ít điều phản chiếu sai lạc, do nhưng vật lịch sử được choàng thêm tấm màng huyền thoại  hư ảo, người đời sau tô vẽ, nhào nặn công phu dưới thuyết phong thuỷ, vừa bí hiểm vừa chủ quan định sẵn. Nhưng dù sau thần phả trước sau cũng chỉ  là thần phả. Những ảnh xạ lịch sử từ  đó quá mờ nhạt, khiến người đi tìm sự thật gặp muôn vàn khó khăn  trở ngại , song không kém phần hấp dẫn. Huyền tích về Vũ Hồn được viết lên từ cái cốt của lịch sử và sự thêu dệt của dân gian. Chính vì thế Vũ Hồn đã di vào đời sống tâm linh của con cháu họ Vũ và dân làng Mộ Trạch. Con cháu họ Vũ nối đời sinh ra ở đó và mặc nhiên  coi Vũ Hồn là thuỷ tổ - thần tổ của họ mình. Các nguồn sử liệu dưới đây sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm về nhân vật lịch sử  Vũ Hồn .


II.        Các nguồn Sử liệu về Vũ Hồn .


Ở Việt Nam có một số bộ sử trong đó chép về nhân vật Vũ Hồn:


Lê Văn Hưu được coi là sử gia đầu tiên của Đại Việt đã biên soạn bộ Đại Việt sử ký 30 cuốn. Tiếc thay bộ sử lớn đó đã thất lạc nên không rõ trong đó có ghi chép về nhân vật Vũ Hồn hay không?


An nam chí lược của Lê Tắc được hoàn thành những năm đầu thế kỷ XIV cũng có ghi về những người tiền nhiệm và người kế nhiệm Vũ Hồn làm chức An Nam Đô hộ:


Hàn ước, làm An Nam Đô hộ năm Thái  Hòa thứ 2 (828), đời Văn Tông. Thứ sử Phong  Châu là Vương Thăng Triều làm phản  Ước dẹp yên , sau bị loạn  quân đuổi chạy .


Mã thực, tự Tồn Chi , đầu niên hiệu Khai Thành ( 836 ), đời vua Văn Tông, làm Nam An Đô hộ ..


Vũ Hồn, làm Nam An Kinh lược, năm Hội Xương thứ 3 (843 ), bị loạn quân đuổi đi.


Điền tảo, con của Điền Hồng Chính, trong khoảng niên hiệu Thái Hoà  (826- 830) làm An Nam Đô hộ.


Vương Thức, con của Tể tướng Vương Khởi, thời Tuyên Tông (847- 859 ) làm An Nam Đô hộ[2]


Việt sử lược là bộ sử khuyết danh được biên soạn khoảng thời gian cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV trong đó ghi chép về người tiền nhiệm trước Vũ Hồn:


Hàn ước ,người ở Vũ Lâm thuộc Lãng Châu, vốn tên là Trùng Cách. Trong khoảng niên hiệu Thái Hoà (827- 835 ) đời Văn Tông , bỏ chức Đô đốc các châu, đều thuộc vào An Nam Đô hộ phủ, lấy Ước làm đô hộ .


Vũ Hồn , người  đời Vũ Tông (841- 846 )


Bùi Nguyên Hựu, người đời Vũ Tông [3]  


Đại Việt sử ký toàn thư do Ngô Sĩ Liên và các sử thần đời Lê biên soạn, ở phần ngoại kỷ chép về Vũ Hồn cùng những người tiền nhiệm, kế nhiệm ông:


Mậu Thân (828 )(Đường Văn Tôn Hàm, Thái Hoà thứ 2 ). Đô hộ Hàn Ước đánh Vương Thăng Triều ở Châu Phong, thắng được. Sau bị Dương Thanh đuổi, chạy về Quảng Châu .


Tân Dậu  ( 841 ) ( Đường Vũ tôn Viêm, Hội Xương năm thứ 1). Nhà Đường xuống chiếu lấy Vũ Hồn làm kinh lược sứ thay Hàn Ước.


Quý Hợi ( 843 )(Đường, Hội Xương năm thứ 3 ). Kinh lược sứ làVũ Hồn bắt tướng sĩ sửa đắp phủ thành, tướng sĩ làm loạn, đốt lầu cửa thành, cướp kho phủ. Hồn chạy sang Quảng Châu . Giám quân Đoàn Sĩ Tắc dụ yên được bọn làm loạn.


Bính Dần ( 846 )(Đường Hội Xương năm thứ 6 ). Người Nam Man vào cướp, nhàĐường sai Kinh lược sứ làBùi Nguyên Dụ đem quân các đạo lân cận dẹp được. 2


Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục của quốc sử quán triều  Nguyễn dẫn sách Đường thư và giải thích rõ thêm về nhân vật  lịch sử Vũ Hồn  cùng những người tiền nhiệm và kế nhiệm ông:


Theo Đường thư, Hàn ước là người có chí dũng quyết, lõm bõm sử sách, có tài hành chính; trước đã làm Thứ sử Kiền Châu. Đến khi Thăng Triều làm .


Phản, Hàn Ước lãnh chức An Nam Độ hộ, đánh dẹp yên, Thang Triều bị giết. Sau, quân phủ đô hộ nổi loạn, Hàn Ước bị đuổi, chạy về Quãng Châu.


Lời chua: Hàn Ước: Theo truyện Vương Phan trong Đường thư, Hàn Ước người Vũ Lăng, tín thân bằng tiền và thóc.


Năm Bính Thìn (836)( Đường, năm Khai Thành thứ 1).


Nhà Đường dùng Mã Thực làm đô hộ…


Trong (lời cẩn án – xem xét kỹ các tài liệu rồi nhận địng rằng:)..Thế mà sử củ.. chỉ chép thuộc Đường, nam Hội Xương thứ nhất (841), Vũ Hồn thay Hàn Ước làm Kinh lược sứ. Nay xét Đường thư bản kỷ, đời Văn Tong,năm Thái Hòa thứ 3 (829), Ước bị quân nổi loạn đuổi. Kể từ năm Thái Hòa thứ 2 (828) đến năm Hội Xương thứ nhất (841), trong khoảng đó còn có niên hiệu Khai Thành (836-840) gồm 5 năm phải còn có Mã Thực làm Đô hộ. Vậy thì Vũ Hồn kế chân Mả Thực, chứ không phải thay Hàn Ước. Nay theo Đuờng thư, xin bổ chính để nêu rõ… Và chữa chổ sai lầm.


Năm Tân Dậu(814)(Đuờng, Vũ Tông, năm Hội Xương thứ 1).


Nhà Đuờng dùng Vũ Hồn làm Kinh lược sứ.


Vũ Hồn đến nơi, bắt tướng sĩ sửa phủ thành; quân lính ở phủ đô hộ khởi loạn, đốt lầu thành, cướp kho đạn. Vũ Hồn chạy về Quảng Châu. Viên giám quân là Đoàn Sĩ Tắc dẹp yên đám quân lính làm loạn, Giao Châu mới được yên.


Năm Bính Dần (846)(Đường, năm Hội Xương thứ 6).


Tháng 9, mùa thu. Quân Man Nam Chiếu vào lấn cướp, Kinh lược sứ Bùi Nguyên  đem quân các đạo đánh bại được[4].


Như vậy việc dẫn các sách sử ở trên mặc dù có sự ghi chép chưa thống nhất về Kinh lược sứ Vũ Hồn cùng người tiền nhiệm và người kế nhiệm ông. Song cho thấy ghi chép trong An Nam chí lược của Lê Tắc đời Trần (lúc đó ông đang sống ở Trung Quốc) có phần đảm bảo độ xác thực cao. Thứ tự danh sách các viên Đô hộ, Kinh lược sứ có thể tạm kê ra như sau:


Hàn Ước (828); Điền Tảo (826-830(Điền Tảo có thể đảm nhậm chức Đô hộ trước hoặc sau Hàn Ước?); Mã Thực (836-840); Vũ Hồn (841-843); Bùi Nguyên Dụ (844-846).


Những điều trình bày trên cho thấy Vũ Hồn là một nhân vật lịch sử có thật. Ông làm quan đời Đường, Vũ Tông (841-846).


Năm 841 ông được cử làm Kinh lược sứ An Nam, thay Mã Thực. Khi đến nơi nhậm chức sau một thời gian vào năm 843 đã xảy ra sự biến mà Đại Việt Sử ký Toàn thưKhâm định Việt sử thông giám cương mục dựa vào Đường thư, cùng một số sách khách chưa rõ xuất sứ ? để biên soạn, đã dẫn ở trên.


Tiếc thay tài liệu lịch sử không chép gì thêm về con người và sự nghiệp nhất là hậu hoạn lộ, quãng đời sau của Kinh lược sứ Vũ Hồn. Sau vụ loạn quân ở phủ thành đô hộ ông ở lại Quảng Châu hay đến nơi nào khác? Có tiếp tục làm quan với nhà Đường hay đã lui về vườn ?


Vũ Hồn có quay trở lại nước ta hay không, với tư cách một ông quan hay một thường dân; nguyên Kinh lược sứ Vũ Hồn đã đến mở ấp Khả Mộ ( Mộ Trạch sau này), cưới vợ việt Định cư rồi sinh ra con cháu họ Vũ nối đời ở đó. Cho đến nay chưa tìm thấy lịch sử nào ghi chép chính xác về những điều tồn ghi nêu trên. Khoảng trống lớn đó vẫn chưa lấp được !


Hàng ngàn năm lịch sử đã trôi qua, biết bao dâu bể, nhiều sự kiện đã bị, thời gian vùi lấp vĩnh viễn. Song có những gì cần lưu giữ vẫn được dân gian giữ gìn trân trọng. Dân làng Mộ Trạch, trong đó gồm nhiều thế hệ họ Vũ từ xưa đến nay đều có chung hoài niệm về Vũ Hồn. Thông qua huyền tích dân gian họ coi Vũ Hồn như một vị thuỷ tổ của họ Vũ, một vị thần thành hoàng làng đã xây nền đặt móng cho con cháu muôn đời.


Do coi Vũ Hồn là thuỷ tổ, thần tổ họ Vũ ở Mộ Trạch nên từ rất sớm khi lập phả đồ hay tộc phả họ Vũ, con cháu họ duệ đều giành vị trí xứng đáng cho Vũ Hồn, đã ghi chép, bổ sung thêm nhiều chi tiết về cuộc đời Vũ Hồn.


Trong Công dư  tiệp ký, phần Thế gia Vũ Phương Đề có chép về họ Vũ ở Mộ Trạch: Ông tổ họ Vũ ở Mộ Trạch tên là Hồn, người tỉnh Phúc Kiến. Năm Hội Xương thứ 1 (841) đời vua Vũ Tông nhà Đường, ông lại thay Hàn Ước làm Giao Châu Thứ sử . Ông thấy xã Mộ Trạch có phong thuỷ xinh đẹp, bèn đến cư trú ở đó. Rồi ông đặt tên huyện ấy là Đường An và đặt tên xã ấy là Khả Mộ.


Đời Vua Minh Tông nhà Trần  (1314-1329), nghiêu Tá và em là Nông cùng thi. Hai anh em đều nổi tiếng hay chữ và làm quan tới chức Nhập nội hành khiển Tả bộc xạ. Các ông bắt đầu tìm tòi tông phái, liệt kê thế thứ, khoa danh và tước trật. Từ đó mới có tài liệu để khảo cứu …


Trong khoảng niên hiệu  Thịnh Đức và Vĩnh Thọ đời Lê Thần Tông (1653-1661) họ Vũ Khoa nào cũng có người đỗ Tiến sĩ …Đồng thời có 13 người cùng làm quan trong triều . Cả làng đều là cháu chắt của ông Hồn . Ban đầu ông Hồn được phong làm phúc thần , sau được gia phong nhiều huy hiệu . Hiện nay (1755) phía sau rừng hãy còn ngôi mộ của ông Hồn .


Trong khoảng niên hiệu  Dương Đức  (1672-1673 ) đời Lê Gia Tông, Duy Hài và Công Đạo sang sứ nhà Thanh, dự định sau khi xong việc, sẽ xin phép đến tỉnh Phúc Kiến tìm nhận tông phái họ Vu .õ Nhưng vì vùng ấy bấy giờ đang có giặc giã, đường xá đều mắc nghẽn, không đi lại được nên đành thôi[5].


 Từ năm 1767-1769 nhóm anh em, chú cháu Lan Am Vũ Phương Lan, cháu đời thứ 15 thuộc chi 3; Hằng Hiên Vũ Thế Nho, cháu đời thứ 15 thuộc chi thứ 5; Vũ Tông Hải, cháu đời thứ 10 thuộc phái kỷ cùng nhau biên soạn Mộ Trạch Vũ tộc thế hệ sự tích (bản sao của sách lưu tại thư viện Hán Nôm, ký hiệu A 3132).


Để biên soạn sách trên các bậc tiền bối Vũ Phương Lan,Vũ Thế Nho, Vũ Tông Hải đã dựa vào các di văn của tiền nhân còn lưu lại như : Tông phái đồ của Vũ Nghiêu Tá vàVũ Nông, Sơ đồ chỉ dẫn tông tộc của tướng công Hằng Trai Vũ Dự, Lược đồ của tướng công phác trai Vũ Duy Trí, Lời truyền lại của viên ngoại  lang Thức Trai Vũ Hiệu, Ghi chép của quyền  Tham chính Trạch Xuân hầu  Vũ Phương Đề; cùng văn bia ở nhà thờ các chi họ … Tuy các phả đồ gốc và những ghi chép đó không còn, chỉ được nhắc đến trong các công trình  biên soạn tộc phả từ thế kỷ  XVIII về sau này, nhưng rất quý giá.


Ở phần Đường Trạch Vũ tộc phổ hệ tục biên quyển 1, hay trong Mộ Trạch Vũ tộc ngũ chi phả, bản microphim chữ Hán, hiện lưu trữ tại thư viện Hán Nôm, ký hiệu A659 có viết:


Đức thuỷ tổ họ Vũ, tên húy( bên trái viết bộ chấm thủy    bên phải viết chữ quân    gộp lại là chữ  Hồn    ), vốn người huyện Long Khê, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc, làm quan dưới triều Đường, Kính Tông. Năm Bảo Lịch thứ 1 (825) thay Hàn Thiều[6] làm Giao Châu thứ sử; đến đời Văn Tông, năm Hội Xương thứ  3( 843) được thăng làm An Nam Đô hộ sứ. Sau vì tuổi già, tật bệnh trả thẻ bài từ quan . Ngài chỉ ưa thích độc một phong cảnh làng ta (Mộ Trạch), bèn chọn làm nơi cư trú … Chính Đại vương đã khai phá ruộng đất thôn Thượng mà lập thành ấp. Từ đó con cháu ngài sinh trưởng tại bản ấp, thành người nước Nam, an cư lạc nghiệp ở quê mới từ đời Đường, Tống xa xưa[7].


Trong cuốn Mộ Trạch Vũ tộc Thế Trạch đường gia phả, chữ Hán, ký hiệu A3136, trong đó coi Huyền Aân ( sống khoảng cuối Trần –thế kỷ XIV ) là tổ thứ nhất của Thế Trạch đường. Đến đời thứ 6 thì phân thành ngũ chi. Sách này cũng dẫn lại lời tựa của Mộ Trạch Vũ  tộc thế hệ sự tích được Mậu Lâm Hình Bộ Lang trung Vũ Phương Lan xem lại; Tiến sĩ  Khoa Giáp Tuất Tri thị nội thư tả Thiêm sai công phiên, Hàn lâm viện thị thư Vũ Di Hiến đính chính vào ngày tốt tiết thu năm Cảnh Hưng thứ 30 (1769). Hậu duệ Vũ Hoa Phong bổ sung, thừa sao ngày 1 tháng 8 năm Khải Định thứ 5(1920) . Trong đó cũng coi thuỷ tổ là bậc thượng thần Đại Vương, vốn dĩ hào kiệt phương Bắc sang làm đầu mục Nam bang, tinh nghề phong thuỷ trước Cao Đô hộ đời Đường (Cao Biền, giỏi việc thơ văn nối dòng Sĩ Vương ( Sĩ Nhiếp) đời Hán; đã chọn danh hương này mà dựng cơ nghiệp, sáng khai nền nhân do ức vạn năm về sau ….


Bài dẫn thế thứ họ Vũ Mộ Trạch trong Thế Trạch đường gần như sao lại Đường Trạch Vũ tộc phổ hệ tục biên (q1 đã dẫn ), cũng coi Vũ Hồn là thuỷ tổ họ Vũ Mộ Trạch, Đường An; vốn người Phúc Kiến, Trung Quốc; làm quan đời Đường …Năm Bảo Lịch nguyên niên (825) thay Hàn Thiều làm Giao Châu Thứ sử; do mến làng ta phong cảnh đẹp đã chuyển cư đến ở đó.


Bài tựa Tích Thiện đường phổ hệ trong Mộ Trạch Vũ tộc Tích Thiện đường phổ ký và đồ do hậu duệ Lương Đường Độn Tậu Vũ Văn Tài soạn nhân tiết thanh minh năm Quý Tỵ, Minh Mạng thứ 14 (1833). Sách chữ Hán, ký hiệu A661, có viết:


Thần tổ Đại Vương họ Vũ, huý là Hồn, người Phúc Kiến, Trung Quốc. Quê quán ở xã Long Khê, huyện Phúc Điền, phủ Phúc Châu. Ngài nhiều lần đến phương Nam( nước ta ) vãng cảnh. Trước ngài thay Hàn Ước làm Giao Châu Kinh lược sứ. Sau ngài lại thay Hàn Thiều làm Giao Châu Thứ sử. Ngài lại làm An Nam Đô hộ, trước thời Cao Biền, cho xây dựng thành Đại La, xưa gọi là thành Đông Khai, lại gọi là Bắc thành tức tỉnh Hà Nội nay.


Ngài xem khắp các danh địa nước ta, như Kim Hoa ở Thanh Nhàn, Cổ Bi ở Gia Lâm, Xuân Lôi ở Võ Giàng, Cổ Lũy ở Đông Ngàn, Hoàn Hậu ở Quỳnh Lưu,nhưng không nơi nào đẹp hơn hương ấp ( Mộ Trạch ) ta. Ngài bèn cắm đất định cư… Lấy tên huyện là Đường An, tên xã là Khả Mộ; sau đổi là Mộ Trạch. Bản ấp xưa tên là Chằm Trạch, lại có tên là Lạp Trạch  (vì gọi tên nghề làm nón ấp ta ). Thần tổ là người đầu tiên khai mở ra ấp mới, nhân đó gọi là ấp Khả Mộ. Cho nên đến đây ( thời Minh Mạng 1820-1840) cả ấp đều coi là hậu duệ của thần tổ Vũ Hồn.


Thần tổ cùng phu nhân được hợp tác tại ấp, tục gọi là Mã Thần- dân làng lập đình miếu thờ tự ,các triều đại phong thần là thượng đẳng tối linh Đại Vương[8].


Như vậy từ truyện Thế gia của Vũ Phương Đề, đến những ghi chép có sự khác nhau trong phả hệ họ Vũ ở Mộ Trạch: Mộ Trạch Vũ tộc thế hệ sự tích, Mộ Trạch Vũ tộc Vũ ngũ chi phả, Mộ Trạch Vũ tộc bát phái phả, Mộ Trạch Thế Trạch đường, Mộ Trạch Tích Thiện đường, Vũ tộc bát phái đồ phả; song tựu chung đều cho biết được thông tin rất cơ bản vềVũ Hồn. Ông nguyên quán ở xã Long Khê, huyện Phúc Điền, phủ Phúc Châu (tỉnh Phúc Kiến ), Trung Quốc. Ông làm


quan thời Đường từ năm 841 đến 843, giữ chức Kinh lược sứ An Nam. Ông là người giỏi phong thuỷ nên đã chọn ấp Khả Mộ ( Mộ Trạch) để định cư. Con cháu họVũ đời đời sinh ra ở đó và đều nhận Vũ Hồn là vị thuỷ tổ, thần tổ của dòng họ Vũ ở Mộ Trạch,Việt Nam.


Trong khi biên soạn các bộ tộc phả, chi phả họVũ nêu trên các tác giả có tham khảo chính sử, thần phảvà các bộ phả cũ của tiền nhân, cùng một số tài liệu khác lưu ở họ ở làng. Vì thế đã cung cấp thông tin xác đáng về con người (quê quán); hoạn lộ (đường làm quan ) của Vũ Hồn; đồng thời đều thừa nhận Vũ Hồn là thuỷ tổ, thần tổ của họ Vũ ở Mộ Trạch. Tuy nhiên cũng cho thấy sự ghi chép chưa được thống nhất về hành trang của Vũ Hồn: Trước ông thay Hàn Ước làm Giao Châu Kinh lược sứ. Sau ông lấy tên là Hàn Thiều làm Thứ sử Giao Châu hay đã thay Hàn Thiều làm Thứ sử Giao Châu? Những thông tin chưa khớp nhau giữa tộc phả và chính sử khiến chúng ta còn tốn nhiều giấy mực để tìm tòi, giải mã.


Song sự thừa nhận Vũ Hồn là thuỷ tổ – thần tổ không những được ghi trong tộc phả màcòn được khắc vào bia đá ở làng Mộ Trạch và ở một số địa phương khi con cháu họ Vũ chuyển cư đến nơi ở mới.


Trong số hơn hai mươi bia hiện còn ở Mộ Trạch, có bia Quang Chấn Đường dựng năm 1679; bia hai mặt, mặt thứ nhất là Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1652) Hồ Sĩ Dương soạn, ca ngợi sự nghiệp của Quốc lão Tể tướng Vũ Duy Chí (1603-1679). Mặt sau ghi sự nghiệp của Tể tướng do ông tự soạn, Vũ – Thường – Tồn  viết văn bia năm 1681. Khi thực ghi sự nghiệp của mình, lưu lại cho con cháu đời sau Vũ – Tể – tướng tự nhận:


Tôi thuộc phái thần ở Hồng An Trạch (phủ Thượng Hồng, huyện Đường An, xã Mộ Trạch). Thoạt đầu, vị tổ họ Vũ huý Hồn. Thời nhà Đường làm Giao Châu Thứ sử, ấp đến ở có tên Khả Mộ, huyện Đường An …..Năm, tháng về sau sách phả mất hết, cho nên (thế ) thứ, danh hiệu, tước trật, công lao không có được. Kịp có Tằng tổ của Truy Viễn đường soạn ra Tổng dẫn đồ phả hệ của nhà thờ, biết được gần nhất là từ tổ thứ 9 (kể từ Vũ Duy Chí trở lên) thời nhà Trần, tặng( chức) tăng thống, húy Nạp[9].


Hoặc trong bia Trùng tu đại đình năm 1930, do Cử nhân, Tri phủ hưu trí Vũ Duy Đê soạn ngày 3 năm Bảo Đại thứ 8 (1932),(dựng ở đình làng Mộ Trạch) có bài minh rằng;


Nguyên do thần tổ


Đến từ Bắc phương


Giao Châu Đô hộ


Là thành hoàng làng


Phù dân giúp nước


Trừ tai, giáng tường


Làm đức thêm thịnh


Nhiều điều khó quên


Trước là lâu dài


Nay là đình Vũ


Nối đời thờ cúng


Làng có bài ca…[10]


Có thể tự hào rằng trong lịch sử tồn tại và phát triển của dòng tộc Vũ – Võ hơn ngàn năm qua con cháu hậu duệ nhiều người từ làng Mộ Trạch (quê gốc) đã chuyển cư đến nhiều nơi khác nhau ở trong nước và nước ngoài. Ra ít nhiều họ đều mang theo hoài niệm về quê gốc, về thuỷ tổ – thần tổ của họ mình. Thường đến nơi quê mới họ ghi lại hoài niệm đó trong gia phả như chi họ Đặng Vũ ở Hành Thiện, Nam Định; hoặc trong bia ký như chi họ Vũ ở làng Tám – Giáp Bát, xã Thịnh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội… Hoặc con cháu hậu duệ học cách táng treo theo truyền thống của tổ tiên, như họ Vũ ở Minh Tân thuộc Thuỷ Nguyên thành phố Hải Phòng. Cũng có một số nơi các thế hệ kếtiếp nhau truyền khẩu từ ngày sinh, ngày hoá của Thần tổ để ghi nhớ về vị Thuỷ tổ họ Vũ.Đó là những dẫn chứng khá điển hình về việc hậu duệ không quên tổ tiên.


Như vậy, từ những huyền tích- huyền thoại và di tích lăng Thần, mộ Đống Rờm, Kiệt Đặc, miếu thờ Vũ Hồn đã góp phần tôn vinh thần. Cùng với sự ghi chép trong chính sử và một số sách như phả đồ, gia phả, tộc phả họ Vũ viết trên giấy hay khắc lên bia đá từ cuối đời nhà Trần(đầu thế kỷ XIV) đến giữa thế kỷ XX ở làng Mộ Trạch cũng như nhiều nơi khác, đều khách quan thừa nhận Vũ Hồn là thủy  tổ – thần tổ của dòng họ Vũ ở Mộ Trạch, Việt Nam.


TÀI LIỆU THAM KHẢO


I Chữ Hán:


 1.        Đinh từ tự điển – Vũ Tông Hải – Vũ Phương Lan. TS. Vũ Huy Đĩnh nhuận sắc. Lưu tại làng Mộ Trạch (LMTr).


 2.        Mộ Trạch thế phả. Ký hiệu thư viện Hán Nôm (Kh) A985.


 3.        Mộ Trạch Tích Thiện đường. Vũ Văn Tài. A661.


 4.        Mộ Trạch tự điển cổ lệ. A743.


 5.        Mộ Trạch Vũ tộc bát phái phả. A660.


 6.        Mộ Trạch Vũ tộc ngũ chi phả - Vũ Phương Lan - Vũ Thế Nho - Vũ Tông Hải. TS.Vũ Huy Đĩnh nhuận sắc (bản micrôphim) A659.


 7.        Mộ Trạch Vũ tộc thế hệ sự tích - Vũ Phương Lan - Vũ Thế Nho - Vũ Tông Hải. TS.Vũ Huy Đĩnh nhuận sắc (bản micrôphim). A3132.


 8.        Mộ Trạch Vũ tộc Thế Trạch gia phả - Vũ Phương Lan - Vũ Thế Nho - Vũ Tông Hải. TS.Vũ Huy Đĩnh nhuận sắc (bản microphim). A3136.


 9.        Mộ Trạch xã cựu khoán (LMTr)


10.       Vũ tộc bát phái đồ phả,


11.       Vũ tộc ngọc phả (LMTr)


II Tiếng Việt:


12.       Bia trùng tu đại đình, dựng năm 1932 – Vũ Huy Phú dịch.


13.       Lê Tắc – An Nam chí lược. Nxb Thuận hóa – Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây. 2002


14.       Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê – Đại Việt sử ký toàn thư, Tập I. Hà Nội. Nxb KHXH. 1972


15.       Bia Quang Chấn đường, dựng năm 1679 – Vũ Huy Phú dịch


16.       Quốc sử quán triều Nguyễn – Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Tập I. Hà Nội. Nxb Giáo dục. 1998.


17.       Việt sử lược – Trần Quốc Vượng – phiên dịch và chú giải – Hà Nội. Nxb Văn sử địa. 1960.


18.       Vũ Duy Mền – Hoàng Minh Lợi – Hương ước làng xã Bắc Bộ Việt Nam với  luật làng KanTo Nhật Bản (thế kỷ XIV-XVIII). Hà Nội. Viên sử học. 2001.


19.       Vũ Duy Mền – Tư liệu điền dã làng Mộ Trạch 1985 – 2000


20.       Vũ Huy Phú – Mộ Trạch – làng Tiến sĩ. Bảo tàng Hải Dương. 1997



 




[1] Bản ngọc phả hiện lưu tại nhà ông Vũ Đăng Nụ, làng Mộ Trạch, xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương



[2] .Lê Tắc. An Nam chí lược. Nxb Thuận Hóa, trung tâm ngôn ngữ Đông Tây. 2002. Tr198-199



[3]. Việt sử lược .Trần Quốc Vượng (TQV) phiên dịch và chú giải. HN. Nxb Văn sử địa,1960 .Tr33-34. TQV chú thích :


- Vũ Hồn làm Kinh lược sứ An Nam (841). Đến nơi, bắt tướng sĩ sữa phủ thành. Quân lính nổi dậy  cướp kho đạn (843). Vũ Hồn chạy về Quảng Châu . Giám quân Đoàn Sĩ  Tắc chiêu dụ bọn quân loạn ( Tân đường thư. Q 8. 9a) .


- Bùi Nguyên Hựu ( là Bùi Nguyên Dụ) làm Kinh lược sứ, đánh được quân Nam Chiếu năm 846  (tháng 9 năm Hội Xướng thứ 6)( Tân Đường thư, Q8 . 10a).


- Đại Việt sử ký ( toàn thư ).Tập I. HN. Nxb KHXH. 1972. Tr 134.



[4] Khâm định Việt sử thông giảm cương mục. Tập I. HN. Nxb.1998. Tr 197-199



[5] Vũ Phương Đề. Công dư tiệp ký. HN. Nxb Văn học. 2001. Tr 15-16.



[6] Mộ Trạch Vũ tộc ngũ chi phả – Tr 9 ( Theo Lê Tắc – An nam chí lược – Đầu niên hiệu Bảo Lịch(825) Lý Nguyên Thiên làm An Nam Đô hộ ) Trong số quan lại đô hộ nước ta thời thuộc Đường không có ai tên là Hàn Thiều ? Có thể ngũ chi phả đã ghi nhầm sự kiện này? Theo ngọc phả: Năm đầu Bảo Lịch (825) Vũ Hồn lấy tên là Hàn Thiều và được cử làm Giao Châu Thứ sử.



[7] Mộ Trạch Vũ tộc ngũ chi phả. Tr 9-10



[8] Mộ Trạch Vũ tộc Tích Thiện Đường phả ký và đồ phả. Tờ 1-2 .



[9] Xem Vũ Huy Phú -Mộ trạch làng tiến sĩ ( MT-LTS). Bảo tàng Hải dương.1997. Trang 192-204



[10] 2 MT – LTS, Tr 113 – 114  Xem: Vũ Huy Phú, Mộ Trạch – Làng Tiến sĩ (MT -  LTS). Bảo tàng Hải Dương. 1997. Tr 192 – 204







LƯỢC SỬ TÊN HỌ NGƯỜI VIỆT


Nghiên cứu tất cả hệ thống tên họ các dân tộc trên thế giới cho thấy người Việt có lẽ là một dân tộc đầu tiên, cùng với người Trung Hoa và Ðại Hàn, có một hệ thống tên họ đơn giản và hợp lý nhất. Người Nhật mải đến năm 1872 mới được quyền có họ, trước đó chỉ có các ngài đạiđanh (samourais) là có đặc quyền đó. Theo lịch sử Trung quốc, việc đặt họ tên bắt đầu từ năm 2852 trước Công nguyên, khi vua Phục Hi ra lệnh bắt dân chúng phải có một "gia tính" hay "tộc tính" để dễ phân biệt các hệ phái gia đình và định phép tắc hôn nhân. Ðến thế kỷ thứ V trước Công nguyên ở Trung quốc đã có hai loại "gia tính" được dùng: "tính" là họ gốc, do cha truyền con nối hoặc do vua ban, và dành cho nam giới; "thị" là họ cành, tức tên đặt khi mới sanh dùng cho cả nam lẫn nữ. Giới quý tộc vừa có Tính vừa có Thị, dân giả thì chỉ có tính. Từ đó phát xuất thành ngữ "bá" hoặc "bách tính". Con trai đàn ông xưng "thị" để phân biệt sang hèn, con gái đàn bà xưng "tính" để phân biệt hôn nhân.


Theo huyền thoại, Lạc Long Quân và các vua Hùng đều rất gần dân chúng, biết hết sự tình của con dân. Như Lạc Long Quân chỗ ở là thủy phủ nhưng khi dân cần đến, đứng trên bờ gọi là ngài sẽ lên giúp dân. Nhân số bành trướng, lãnh thổ Bách Việt cũng thiên di từ phía nam sông Dương-tử xuống đồng bằng sông Hồng, hội nhập văn hóa và đồng hóa người Mường và các sắc dân địa phương. Tuy nhiên văn hóa nông nghiệp nền tảng của Việt tộc vẫn luôn trội bật. Do đó hơn hai ngàn năm trước, tổ tiên ta đã nghĩ lập ra "sổ điền" cốt để nhà vua kiểm kê nhân và dân số hàng năm hoặc theo một thời hạn cố định, mục đích nhằm phân chia ruộng nương thời đó thuộc về nhà vua. Việc phân chia này đòi hỏi một sự hiểu biết tường tận từng nóc gia. Với họ và tên gọi, quan chức triều đình có thể ấn định số người trong mỗi gia đình. Về sau thêm "sổ đinh" hoặc "sổ bộ", ghi họ tên chính thức về hộ tịch từng cá nhân và gia đình. Rồi từ "sổ bộ", mỗi gia đình lập một sổ riêng, ghi chú tất cả những việc cưới hỏi, sinh đẻ và tang ma. Ðó là nguồn gốc của gia phả.


Nếu lịch sử là quá khứ và nền tảng của một dân tộc thì gia phả là lịch sử hình thành và phát triển của gia tộc. Gia phả phát xuất từ Trung quốc dưới dạng thức "thế bản" từ thời nhà Chu (111-256 trước Công nguyên) trong khi ở Việt Nam có thể gia phả đã có từ trước, nhưng theo lịch sử biên chép thì gia phả xuất hiện từ năm 1026 vào thời vua Lý Thái Tổ, gia phả đầu tiên được gọi là Hoàng-triều ngọc-điệp. Tục làm gia phả phát triển mạnh ở hai miền Bắc và Trung, trong Nam rất ít gia đình làm gia phả ở đấy còn được gọi là "gia phổ" và biến thái thành "tông chi" tức tờ "tông chi tông đồ" cốt để phân phối gia tài hơn là để phân chia ngành ngọn của gia đình. Theo ông Dã Lan Nguyễn Ðức Dụ, lý do là để tránh sự khủng bố của thực dân Pháp (1).


Trong gia phả, người đứng đầu ngành trưởng (trưởng họ, trưởng tộc) có bổn phận ghi hết những chi tiết về thân thích và dòng dõi; những người con khác sao lại bản gia phả chính đó. Các gia đình giữ gìn kỹ lưỡng và truyền từ đời cha tới đời con. "Họ" theo nghĩa gốc có liên hệ với nhà và dưới chế độ phong kiến, nối kết con người với đất ruộng: một mái nhà, một gia đình, một họ. Họ và tên của một người định vị trí của cá nhân người đó trong xã hội, xác định cá thể trong một toàn thể.


Họ tên của người Việt thông thường gồm có theo thứ tự: họ, chữ lót hoặc tên đệm, và tên gọi. Trừ một vài ngoại lệ, người Việt thường gọi nhau bằng tên gọi (prénom, petit nom; first name): bà Nhị, cô Yến, ông Khanh, cụ Mục, cháu Khuê, v.v.


Họ (Tính):


Số họ người Việt rất hạn chế, có khoảng 140 họ khác nhau - chúng tôi ghi lại trong danh sách ở cuối bài. Do đó có thành ngữ "trăm họ" (bách tính, còn đọc là "bá tánh") thời xưa thường dùng để chỉ dân chúng cả nước. Ông Dã Lan Nguyễn Ðức Dụ trong cuốn Gia Phả đã dẫn có nói đến ba trăm họ tối đa có thể có nhưng ông đã không lập danh sách (2). Cũng theo ông, người Trung quốc cũng chỉ có ba trăm họ trong khi người Nhật Bản xử dụng đến một trăm ngàn tên họ khác nhau. Người Pháp gọi "họ" là "nom de famille" và "patronyme", người Anh Mỹ, "family name" và "patronym".


Những họ Việt Nam thường gặp nhất là Nguyễn, Phạm, Phan, Trần, Lê, Vũ/Võ, Trương, Huỳnh/Hoàng. Nhiều người mang cùng một họ không có nghĩa là họ có cùng một gốc gác. Thời xưa và nhất là ở nhà quê, người ta phân biệt nhau bằng cách gọi "họ Nguyễn làng Tiên Ðiền", "họ Nguyễn làng Tây Sơn", v.v. Trong nhiều làng thôn, tất cả mọi người cùng mang một họ. Có người cắt nghĩa là vì vào thời lập quốc, người Việt chỉ có một tổ tiên chung là Lạc Long Quân và Âu Cơ. Ðến thời hiện đại, những người Việt này chứng minh mỗi dòng họ một tổ tiên riêng.


Từ khi bị người Tàu đô hộ, người Việt chính thức theo chế độ phụ hệ, do đó con cái phải lấy họ cha. Theo dân luật, con phải lấy họ cha, không có vấn đề tự do lựa chọn. Họ không thể cho người ngoài họ dùng và trên nguyên tắc không thể thay đổi. Có hẳn cả một hiệp ước quốc tế năm 1959 về thay đổi họ. Tuy nhiên trong Nam từ thời Pháp thuộc có khuynh hướng dùng cả họ cha và họ mẹ mà đặt cho con, thí dụ con đầu lấy họ cha thì con thứ lấy họ mẹ, anh chị em ruột mà họ khác nhau là vì vậy!


Họ kép:


Nhiều gia đình mang họ kép, như Vũ-Ðỗ Thìn, Ðặng-Trần Huân, Trần-Lê Quang, v.v.. Tuy nhiên cần phân biệt hai loại họ kép:


- Họ + tên đệm: Các họ Ðặng-Xuân, Ðặng-Vũ và Ngô-Vi, Ngô-Thời, xuất phát từ một gia đình gốc họ Ðặng và họ Vũ, nhưng vì muốn phân biệt chi nhánh nên đã thêm tên đệm vào họ. Yếu tố này không phải là họ, nhưng giữ nhiệm vụ tên lót trung gian giữa họ và tên. Nhưng những họ đi kèm với tên đệm "Bá, Thúc" phải được coi như họ đơn, vì những tên lót này chỉ là những chữ lót chung.


- Họ kép hợp bởi hai họ: Ðây là những họ kép chính thức. Thường thấy có: Vũ-Ðỗ, Nguyễn-Trần, Trần-Lê, Hồ-Ðặng, Lê-Phan, Vũ-Phạm, Ðặng-Trần. Vì một lý do nào đó, một người xử dụng họ kép và truyền lại cho các thế hệ sau. Trước hết là trường hợp người con nuôi, y thêm họ gia đình cha mẹ nuôi vào họ gốc. Họ mới đi trước họ gốc. Ðó là hoàn cảnh của nhà thơ Ðặng-Trần Côn, tác giả Bích-Câu kỳ-ngộ và Chinh Phụ Ngâm Khúc. Là con nuôi của một gia đình họ Ðặng, ông vốn tên là Trần Côn. Con cháu thường vẫn tiếp tục giữ họ kép đó. Nhưng có trường hợp có người con lấy lại họ cũ, như con cháu Vũ-Phạm Hàm, gốc họ Phạm, làm con nuôi người bạn của cha họ Vũ nên mới có họ kép là Vũ-Phạm. Về sau, có người còn giữ họ Vũ-Phạm, nhưng đa số lấy lại họ gốc là Phạm vì ông chỉ truyền họ kép Vũ-Phạm cho một trong chín người con.


Một lý do khác thông thường hơn. Vua chúa ngày xưa thường cho phép một số quan lại có công với triều đình hoặc đỗ đạt cao được đổi tên và có khi cho phép theo họ của vua (quốc tính), xem đó là một cách tưởng thưởng trọng hậu. Có người bỏ hẳn họ gốc để lấy họ vua như Mạc Cảnh Vinh được chúa Sãi Nguyễn-Phúc Nguyên cho phép đổi thành Nguyễn-Phúc Vinh. Nhưng thường người được đổi họ được phép giữ họ gốc ghép vào họ mới mà thành ra họ kép. Huỳnh Ðức, quan triều đại Gia-Long trở thành Nguyễn-Huỳnh Ðức. Các con ông là Nguyễn-Huỳnh Thành, Nguyễn-Huỳnh Thừa, v.v.. Tuy nhiên con gái vẫn giữ họ gốc Huỳnh vì con gái không mang quốc tính. Chỉ có thời Tống Nho mới có những phân biệt nam nữ như vậy!


Hiện nay người ta thấy có nhiều họ kép loại nhưng thường gồm hai họ của vợ chồng dùng đặt cho con cái. Các họ kéo mới này không thể trường tồn vì không được mọi người và tục lệ chấp nhận. Hơn nữa, những người con của họ, một khi lập gia đình lại sẽ đổi họ kép đặt cho con, họ kép của người phối ngẫu mới có thể là một họ khác.


Nguồn gốc họ người Việt:


- Họ các triều đại: Ða số người Việt mang một họ trong số 16 dòng họ đã từng cai trị lẫy lừng trong lịch sử. Theo thứ tự niên đại, đó là những họ Thục, Trưng, Triệu, Mai, Khúc, Lý, Phùng, Kiều, Ngô, Ðinh, Lê, Trần, Hồ, Mạc, Trịnh và Nguyễn. Hoặc họ là con cháu thật sự của những dòng họ kể trên, hoặc họ xử dụng như mượn họ hoặc bị bắt buộc mang những họ đó nhưng khác họ thật.


Có gia đình tự ý đổi lấy họ đương triều để chứng tỏ sự trung thành. Có người do nhà vua ban cho như Nguyễn Trãi có lúc đổi tên là Lê Trãi theo họ nhà vua. Một số khác bị bắt buộc phải đổi họ của triều đại vừa bị lật đổ để lấy họ đương triều để chứng giám lòng trung thành với triều đại mới. Trong nhiều trường hợp, triều đình bó buộc dân gian bỏ họ gốc để lấy quốc tính để tránh những nhóm phản động có ý lật đổ triều đình hay làm loạn đưa người họ triều triều đại vừa bị lật đổ vào cho có lý do chính trị (ý trời, "thuận thiên"). Nhà Nguyễn thời Gia Long và MInh Mạng đã bắt những người họ Lê đổi họ thành Nguyễn chỉ vì thời đó những kẻ cầm đầu những phong trào phản động mang họ Lê: Lệ


Riêng họ Nguyễn, còn là họ triều đại quân chủ cuối cùng, có thêm một lý do khác khiến họ này trở nên thông dụng nhưng lại khó hiểu dưới mắt người Tây phương. Ðời Trần Thái-Tông (1232), sau khi đã đoạt ngôi nhà Lý, Trần Thủ Ðộ lấy lý do tổ nhà Trần tên Lý, đã bắt tất cả những người họ Lý là họ dòng vua vừa bị hoán vị, lẩn dân gian, phải đổi làm họ Nguyễn; tuy nhiên ý đồ thật sự là khai tử dòng vua Lý để sẽ không còn ai nhớ đến dòng họ Lý nữa.


Ngoài ra, có người cải đổi tên họ vì trốn sưu thuế, trốn lính hoặc bất đắc dĩ phải đổi lấy họ đương triều vì ông cha bị tội hình như "tru di tam tộc" - cũng là lý do tại sao ngày xưa khi đi thí phải khai họ ba đời. Có người đổi họ vì một lý do riêng tư khác. Như Hàn Thuyên vốn họ Nguyễn, được vua Trần ban cho họ Hàn vì ông làm bài văn ném xuống sông khiến cá sấu bỏ đi, như chuyện Hàn Dũ bên Trung Hoa trước đó. Và vì Hàn Thuyên hay làm thơ phú bằng quốc âm nên về sau các nhà văn học sử có khi gọi thơ văn chữ Nôm là thơ văn "Hàn luật". Hoặc như Hồ Quý Ly tổ tiên gốc người Chiết Giang (Trung Hoa) sang nước ta định cư, đến tổ tiên đời thứ tư là Hồ Liêm làm con nuôi nhà họ Lê nên đổi lấy họ Lê. Nhưng khi Hồ Quý Ly dấy nghiệp, ông lấy lại họ Hồ và đặt cả quốc hiệu là Ðại Ngu vì ông nhận làn dòng dõi nhà Ngu.


Hoặc vì kiên tên húy của vua chúa, nhiều người phải đổi họ, như ông trạng Hoàng Nghĩa Phú (1511), tổ tiên vì kiêng tên vua Lý mà đổi ra họ Trịnh, rồi lại phải đổi ra họ Trần; đến đời Trần Khắc Minh mới đổi lấy lại họ Hoàng. Vua Quang Trung Nguyễn Huệ vốn họ Hồ và dòng dõi Hồ Quý Ly, sau lấy họ mẹ là Nguyễn. Cùng trường hợp với Nguyễn Quang Bích là cháu đời thứ hai của Ngô Quyền.


Hoàng-tộc (patriline) nhà Nguyễn:


Chúng tôi mở dấu ngoặc bàn về họ gia đình vua nhà Nguyễn (1802-1945) vì các họ thuộc về gia đình này không khỏi gây thắc mắc cho nhiều người, nhất là đối với người nước ngoài, như làm sao họ có thể hiểu cha họ Bửu mà con họ Vĩnh. Dòng chúa Nguyễn đến đời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) mới dùng chữ lót "phúc". Con cháu gia đình họ Nguyễn này, từ đời Minh Mạng (1820-1841) trở đi, đã phân biệt nhau theo dòng và thế hệ bằng nhiều "họ mới" khác nhau. Theo thứ tự, con cháu cùng một đời mang cùng một họ riêng nhưng luôn hiểu ngầm là họ Nguyễn. Cứ mỗi "họ mới" là một đời, bắt nguồn từ bài Ðế-hệ thi của vua Minh Mạng, dùng cho "chánh hệ" (primary royal branch) tức dòng vua Gia Long:


Miên Hồng (Hường) Ưng Bửu Vĩnh


Bảo Quý Ðịnh Long Trường


Hiền Năng Khang Kế Thuật


Thế Thoại Quốc Gia Xương


Thí dụ: Miên Tông (Thiệu Trị), Miên Thẩm Tùng Thiện Vương, Miên Trinh Tuy Lý Vương


Hồng Nhậm (Tự Ðức), Hồng Bảo (nổi loạn năm 1848), Hồng Dật (Hiệp Hòa)


Ưng Trình, Ưng Quả, Ưng Kỳ, Ưng Lịch (Hàm Nghi), Ưng Thuyên Bửu Ðảo (Khải Ðịnh), Bửu Lân (Thành Thái), Bửu Lộc, Bửu Hội Vĩnh San (Duy Tân), Vĩnh Thụy (Bảo Ðại), Vĩnh Lộc Bảo Long, Bảo Quốc, v.v.


Như sẽ trình bày trong phần tiếp về chữ lót, cách định họ trước này bị ảnh hưởng người nhà Thanh (Mãn Châu) lúc đó đang cai trị Trung Hoa. Vua Minh Mệnh là vị vua nhà Nguyễn chịu nhiều ảnh hưởng của Trung quốc. Theo phong cách của những người trong giới vua chúa và quan lại nhà Thanh, một ông tổ dụng công nghĩ ra đặt saûn chữ lót cho nhiều thế hệ nối tiếp, có khi cho là do thần truyền mộng. Ðó là nguồn gốc của nguyên tắc "hệ thi" có thể dùng cho nhiều đời liên tiếp.


Tuy nhiên các họ từ bài "đế-hệ thi" nói trên chỉ được dùng cho hậu duệ dòng vua Minh Mạng, vì ngoài "dế-hệ thi" vua còn làm mười bài "phiên-hệ thi" nhắm cho mười ông hoàng anh em của vua. Tưởng cũng cần biết, vua Gia Long có cả thảy 13 hoàng nam; vua Minh Mạng tên Nguyễn-Phúc Ðãm là hoàng tử thứ tư và trưởng nam là hoàng tử Cảnh đã qua đời lúc trẻ tuổi. Sau khi phổ biến 10 bài "phiên-hệ thi" thì Quang-Oai Công, ông hoàng thứ 10 cũng chết trẻ, còn một số ông hoàng khác cũng tuyệt tự sớm hoặc từ đời thứ hai. Ðó là lý do tại sao đến nay trong thực tế chỉ có bốn bài "phiên-hệ thi" được dùng cho hậu duệ bốn ông hoàng kể sau:


- AnhÐuệ Hoàng Thái-tử (Nguyễn-Phúc Cảnh, hoàng trưởng-tử của vua Gia Long):


Mỹ Duệ Tăng Cường Tráng


Liên Huy Phát Bội Hương


Linh Nghi Hàm Tấn Thuận


Vỹ Vọng Biểu Khôn Quang


Hoàng-tử Cảnh mất khi 22 tuổi, ông có hai con trai: Mỹ Ðường bị chú là Minh Mạng kết tội và giáng làm dân đinh, con cháu chỉ được phụ chép vào sau tôn-phả, và người con thứ hai Mỹ Thùy mất sớm. Kỳ-Ngoại Hầu Cường Ðể và các con ông là Tráng Cử, Tráng Liệt, Tráng Ðinh thuộc nhánh (phòng) này.


- Kiến-An Vương (hoàng tử thứ năm):


Lương Kiến Ninh Hòa Thuật


Du Hành Suất Nghĩa Phương


Dưỡng Dĩ Tương Thức Hảo


Cao Túc Thể Vi Tường


Kiến-An quận-công Lương Viên cũng như ông Hòa Giai và con Thuật Hanh, Thuật Hy thuộc phòng này.


- Ðịnh-Viễn Quận-vương (hoàng tử thứ sáu):


Tĩnh Hoài Chiêm Viễn Ái


Cảnh Ngưỡng Mậu Thanh Kha


Nghiêm Khắc Do Trung Ðạt


Liên Trung Tập Bát Da


Ông Tĩnh Cơ cũng như Chiêm Nguyên và các con Viễn Ngô, Viễn Cẩm, Viễn Tống hay ông Chiêm Tân và con Viễn Bào đều thuộc nhánh này.


- Từ-Sơn Công (hoàng tử thứ mười ba):


Từ Thể Dương Quỳnh Cẩm


Phu Văn Ái Diệu Dương


Bách Chi Quân Phụ Dực


Vạn Diệp Hiệu Khuông Tương


Từ Ðàn, Thể Ngô cũng như giáo sư Dương Kỵ và con là Quỳnh Trân, ông Dương Thanh và con Quỳnh Nam đều là hậu duệ con trai út của vua Gia Long.


Các bài "phiên-hệ thi" và "đế-hệ thi" đồng thời là những bài thơ chữ Hán đúng niêm luật và có ý nghĩa; tài của "tác giả" là ở đó, không một chữ trùng điệp. Ở mười một bài tứ tuyệt! Người ta vẫn tương truyền là "ngự chế" do thần mộng! Các bài này năm 1823, được vua Minh Mạng ra lệnh cho khắc lên một cuốn sách kim-loa.i ("kim sách") bằng vàng ròng cho bài "đế-hệ thi" và muời cuốn bằng bạc ("ngân sách") cho mười bài "phiên-hệ thi". Các kim và ngân sách này được bảo trì kỹ lưỡng cho đến thời Tự Ðức thì phần lớn phải nấu ra kim loại để trả nợ chiến phí bốn triệu đồng cho Pháp và Tây-ban-nha theo hiệp ước Nhâm-tuất (1962). Không ai biết sự thật ra sao vì đến ngày Bảo Ðại, vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn thoái vị, các sách kim loại này đã biến mất!


Vua Minh Mạng cũng quyết định rằng hậu duệ của Triệu-tổ Tịnh Hoàng-đế Nguyễn Kim mà không phải là hậu duệ ngành vua Gia Long, tức hoàng tộc "tiền hệ", thì chỉ dùng họ "Tôn-thất". Riêng về nữ giới hậu duệ của vua Minh Mạng thì dùng các cách gọi sau đây, thay đổi theo thứ tự thế hệ:


Công-chúa : chị em vua Minh Mạng


Công-nữ : con của vua


Công tôn-nữ: cháu của vua


Công-tằng tôn-nữ : chắt của vua


Công-huyền tôn-nữ: chít của vua


Lai-huyền tôn-nữ : con của chít của vua MM.


Người trong hoàng tộc thuộc "đế-hệ thi" thường không để "Nguyễn-phúc" hay "Tôn-thất" phía trước họ mới như Bảo Long, Bửu Dưỡng, Ưng Quả,... trong khi những người thuộc "phiên-hệ thi" thì lại hay dùng "Tôn-thất" trước họ mới như Tôn-thất Viễn-Bào, Tôn-thất Dương Kỵ,...


Nói chung, các "họ mới" này giúp đoán biết người nào thuộc hoàng tộc nhà Nguyễn và là hậu duệ của ngành Gia Long, Minh Mạng hay Nguyễn Kim. Tuy nhiên, các "họ" này không thật là "họ" theo nguyên nghĩa, do đo chúng tôi sẽ không ghi vào danh sách các họ ở cuối bài. Riêng con cháu dòng nhà Lê cũng có một hệ thống tên lót "Cam, Hồng, Phước" để phân biệt thế hệ, tuy nhiên chúng tôi chưa tìm được tài liệu (*) để có thể xác nhận.


Họ dân gian:


Trong số "trăm họ" hiện được dùng, có chừng 30 họ là gốc Việt hoàn toàn, lúc đầu vốn là họ bộ tộc. Chúng tôi nói "họ" Việt mà không nói "người" Việt vì đến nay, mấy ai có thể chứng minh là thuần "len" hay "máu" Việt.


Ngược dòng lịch sử, Việt tộc xuất phát từ đồng bằng phía Nam sông Dương-tử bên Tàu. Bị người Hán xâm chiếm, tổ tiên ta đã phải thiên cư xuống phía Nam và lập quốc ở vùng đồng bằng sống Hồng, Bắc Việt. vào khoảng thế kỷ thứ IV trước Công-nguyên. Từ năm 1069, người Việt nam tiến chiếm toàn thể nước Chiêm-Thành năm 1693 và chiếm đóng phần đồng bằng phía đông Cam-Bốt tức Thủy Chân-Lạp năm 1759. Cuộc Nam tiến đã dừng lại khi người Pháp chiếm đóng và thành lập Ðông dương thuộc địa. Phần khác, nước ta từng bị nhà Hán và các triều đại Trung quốc sau đó đô hộ cả ngàn năm, một số quân lính sang đất Giao Chỉ rồi ở lại lập gia đình sanh con đẻ cháu. Mặt khác nữa, nước ta đã từng đón nhận nhiều người Hoa đến tị nạn hoặc di trú. Ðáng kể nhất là quần thần nhà Minh tới định cư ở Nam Việt ta sau khi bị người Mãn Châu (Thanh) xâm chiếm nước họ.


Ðó là lý do lịch sử của một số họ Việt gốc Hoa như Khổng, Lưu, Trương, Mai, Lâm, Lữ, Nhan, Sử, Tăng, Trịnh, Vương, v.v. hoặc gốc Miên như Thạch, Sơn, Danh, Kim, Lâm là năm họ nhà Nguyễn đã ban cho, hoặc gốc Chàm như Chế, Chiêm, v.v. hoặc họ của đồng bào thiểu số (trong nước hiện gọi là "dân tộc") như Linh, Giáp, Ma, Ðèo, Kha, Diêu, Vi, Quách, Nông, Chữ, Ngân, Ông, Trà, Lang, Lục, sầm, v.v.


Ý-NGHĨA HỌ NGƯỜI VIỆT:


Tất cả họ Việt Nam đều có một ý nghĩa ngữ nguyên. Trong số "trăm họ", có những họ xưa tới ba bốn ngàn năm, vào thời đại mà mỗi bộ tộc có một tượng vật riêng, hoặc cây cỏ hoặc cầm thú. Sau đó những tên biểu hiệu tượng vật đó được một số gia tộc dùng làm họ, thí dụ họ Âu. Một số khác biểu tượng nghề nghiệp như họ Ðào (thợ gốm), hoặc cách sinh sống của bộ tộc, như họ Trần. Một số biểu tượng nơi bắt gốc bộ tộc hoặc gia đình. Họ lúc đầu là họ bộ tộc, đó là lý do người Anh và Pháp gọi là "patronym(e)" để phân biệt với "nom de famille / family name".


Lúc đầu được ghi chép bằng chữ Hán, sau thêm chữ Nôm rồi "quốc ngữ" hóa, họ người Việt theo dòng lịch sử bị nhiều ảnh hưởng, đã biến đổi hoặc hiểu sai lạc, khiến cho người thời nay khó hiểu được ý nghĩa sơ nguyên của họ. Cùng một phát âm như của ngày hôm nay, chưa chắc một chữ đã gợi lên cùng một ý nghĩa, như các họ Ðinh hiện được hiểu là "công dân", "người". Quách nghĩa là vật chắc chắn, có sức đối kháng mà cũng có nghĩa là "lớp thành ngoài". Họ Lê vốn nghĩa là "dân chúng" nói chung.


Vì những lý do đã nêu, các họ được ghi chép lại, được hiểu là phải viết như một danh từ chung, nhưng không nên hiểu là có cùng một ý nghĩa như danh từ đó. Cũng như người Pháp có các họ Boucher, Boulanger ... có thể từ nguyên gốc để chỉ những nghề của tổ tiên họ. Các chữ không nhất thiết phải gợi lên hành động, trạng thái hoặc đối tượng của danh từ, nhất là từ khi có chữ quốc ngữ la-tinh, các chữ gợi hình ít hơn và cũng dễ gây hiểu lầm hơn. Tên họ ghi chép trong các từ điển hiện nay nên được xem như không có ý nghĩa chắc chắn, vì thế ta không thể khẳng định họ viết như thế phải nghĩa là thế này hoặc họ đó tương đương với danh từ chung diển tả sự vật hoặc hành động.


Yếu tố tạo thành tên họ người Việt


Ðặt tên cho con hoặc để gọi một người nào, người Việt vẫn dùng một họ đơn hoặc kép, một chữ lót hoặc tên đệm biểu chỉ tính giống hoặc chữ lót chung và một tên (gọi) đơn hoặc kép. Cách dùng này có từ thời lập quốc, ít ra là từ khi có sách sử và thư tịch. Tuy nhiên ngày xưa và nhất là ở một số tỉnh miền Trung, người đàn ông thường có tên họ đơn giản chỉ gồm hai thành tố mà thôi, tên và họ : Trần Ðiền, Bùi Kỷ, Nguyễn Du, Võ Hồng, ... Ở trên chúng tôi đã trình bày về lai lịch và các loại họ đơn và kép. Trong phần này chúng tôi nói đến các yếu tố chính gồm tên lót và tên gọi cũng như những loại tên khác người Việt vẫn dùng để cá nhân hoặc độc đáo hoá chính mình.


1. CHỮ LÓT :


"Chữ lót" hay "tên đệm" trong tiếng Anh thường gọi là "middle name" nhưng đúng ra phải là "padding/qualifying name". Tiếng Pháp có thể là "nom interme'diaire" hay "mot intercalaire". Chữ lót đã được xử dụng từ thời lập quốc xa xưa : ngư phủ Chử Cù Vân trong huyền thoại Chử Ðồng-tử và công chúa Tiên Dung thời vua Hùng (2 tới 3 ngàn năm trước Công-nguyên), anh bà Triệu Ẩu (248) tên gọi là Triệu Quốc Ðạt.


Chữ lót hoặc tên đệm thường được xử dụng nhất là "văn" và "thị" phân biệt phái nam với phái nữ. "Văn" nghĩa là "người có học", "nhà nho". "Thị" có nghĩa là "đàn bà". Có thuyết lịch sử cho rằng "thị" phát sinh ra gốc họ hàng (thị tộc), có ý ám chỉ nhờ người đàn bà mà tộc họ được tồn tại và kéo dài. Theo một số nhà ngữ học, "văn" và "thị" có nghĩa là "con trai của...", "con gái của..." và là dấu vết ảnh hưởng văn hóa Mã Lai. Cách phân biệt nam nữ tiện lợi và dễ hiểu này không còn được người thời nay yêu chuộng lắm, vì người ta cho là thiếu cá tính. Do đó người Việt nay có khuynh hướng chọn những chữ lót khác, hay, đẹp và được chủ quan xem là thích hợp hơn với từng cá nhân.


Sự thay đổi này có thể có nhiều mục đích: làm rõ nghĩa tên gọi, tạo một âm hưởng dễ nghe, hoặc tạo giây liên lạc họ hàng. Ngoài "văn" và "thị", những tên lót chung thường thấy dùng là: phúc, đình, ngọc, bá, thúc, cao, công, huy, như, tường, anh, đức, sĩ, viết, quang, ...


Một loại chữ lót thứ ba dùng để chỉ thứ tự con cái cùng một gia đình và chỉ dùng cho con trai: "Mạnh" cho con cả, "Trọng" cho thứ nam và "Quý" cho con trai thứ ba trở đi. Mạnh, Trọng, Quý vốn gốc chỉ ba tháng của một mùa theo âm lịch. Cách dùng này đã thành thông thường dù nguyên gốc, "Mạnh" dùng cho con cả dòng thứ trong khi "Bá" mới là con cả dòng trưởng. Tuy nhiên Bá, Trọng, Quý còn có những nghĩa khác tùy tên gọi đi sau chứ không nhất thiết thuộc vào ý nói trên. Thí dụ Bá Tòng, Trọng Kiều (cầu nặng), Quý Châu. "Giáp" và "nguyên" cũng thuộc loại chữ lót này, dùng để chỉ con trai đầu lòng, thí dụ : Lê Giáp Hải, Vũ Nguyên Khang.


Loại chữ lót thứ tư dùng để phân biệt các ngành cùng một gia đình gốc mà ra. "Bá", "Thúc" thường được dùng trong loại này. "Bá" dùng đặt cho con nhà bác hoặc dòng trưởng, "Thúc" con nhà chú hoặc dòng thứ. Ngoài ra, cũng cùng một mục đích kể trên, một số gia đình dùng những chữ lót khác như "Vi, Thời", "Xuân, Vũ" : Ngô Vi Thụ, Ngô Thời Nhậm và Ðặng Xuân Quang, Ðặng Vũ Biền.


Một số gia đình khác, thường thuộc giới quan cách, sáng chế chữ lót để phân biệt thế hệ: tất cả con cái một thế hệ sẽ mang cùng một chữ lót. Chế độ đặt tên này rất bành trướng bên Trung-Hoa trong giới quan lại, bắt chước người Mãn Châu tức nhà Thanh lúc bấy giờ. Một ông tổ dụng công đặt chữ lót cho nhiều đời nối tiếp, theo nguyên tắc "hệ thi" chúng tôi đã trình bày ở phần trên, khiến con cháu dù tẩu tán lập nghiệp phương xa cứ nhìn chữ lót là nhận được họ hàng và biết thuộc thế hệ thứ mấy để tiện bề xưng hô. Thường những chữ lót định trước này được ghi trong gia phả để con cháu đời sau biết mà theo, dưới hình thức những câu thơ 4 hoặc 5, 7 chữ. Theo thứ tự, những chữ này trở nên tên đệm. Và đến thế hệ cuối cùng, phải nghĩ ra những tên đệm khác !


Ở Việt Nam có họ Dương Khuê (Hà Ðông) đã phỏng theo cách này. Ông đã đặt một bài hệ thi gồm 16 chữ, mỗi thế hệ cứ dựa vào đó mà đặt tên lót: Dương Tự Quán, Dương Tự Ðề > Dương Thiệu Tống, Dương Thiệu Tước > Dương Hồng Tuân, Dương Hồng Phong > Dương Vân Hán, v.v.


Về phần phái nữ, ngoài chữ lót thông dụng "thị" còn thấy dùng những tên lót khác như "Nữ" và "Diệu", chữ lót sau thường dùng ở Huế : Lê thị Diệu Trang, ... Ở thời hiện đại, tên phụ nữ thường mất hẳn chữ lót "thị" và nhiều chữ lót khác được dùng như : ngọc, thanh, mỹ, thu, tuyết, v.v. dù các chữ lót này không hẳn chỉ dùng cho phái nữ. Nữ có thể là Vũ Ngọc Lan, Trương Thu Thủy, Nguyễn Mỹ Dung, ... trong khi Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Thành Công, ... rõ là nam giới !


2. Tên Gọi (Danh) :


Tên gọi còn được gọi là "tên đẻ", đặt khi mới sinh và "tên bộ", tên ghi ở sổ Bộ. Tên, người Pháp gọi là "prénom" và người Anh, Mỹ gọi là "first name" (hay "personal name") vì đặt trước họ, trong khi người Việt cũng như nhiều dân tộc Á đông khác, tên được đặt sau họ. Một lý do là truyền thống tôn kính gia tộc họ hàng trên trước cá nhân.


Tên thường được chọn một cách tự do hơn. Một cách tổng quát, người nhà quê và bình dân chỉ lựa một tên (đơn, tức độc văn danh), người giàu hoặc có học hoặc tự cho sang trọng hoặc học làm sang, thì có khuynh hướng đặt tên kép (song văn thanh). Ý nghĩa tên gọi trong trường hợp sau cùng này nằm trong cả hai hoặc ba yếu tố tạo nên tên gọi. Tên gọi kép thường dễ tìm thấy trong các từ điển, thí dụ : Hào-Kiệt, Tuấn-Kiệt, Anh-Hùng, AnhÐũng, Bạt-Tu.y, Kỷ-Cương, An-Khang, Chi-Lan, Diễm-Kiều, Ðoan-Trang, Tinh-Hoa, v.v.. Cùng trường hợp với một số chữ lót như "ngọc, thanh, ...", nhiều tên gọi có thể dùng cho cả nam lẫn nữ vì nói chung toàn bộ tên họ của một người thường mới cho biết người đó là nam hay nữ : Hiền, Tuyền, Kim, Hoàng, Nhân, v.v.


Trên lý thuyết, mỗi người có một tên gọi khác nhau. Khác, vì tùy theo tín ngưỡng hoặc tư tưởng người ta muốn gán cho tên gọi, hoặc tùy theo tính tình và trí tưởng tưỡng của người đặt tên. Mỗi người có thể đặt tên cho con cháu hoặc đổi tên mình theo ý muốn, cả những tên kỳ dị hay đặc thù không giống ai. Tên đơn giản thường thấy ở giới bình dân hoặc ở thôn quê như: Ổi, Mít, Tèo, Bướm, Tí, Hĩm, Cu, ... Nhà nào sanh con khó nuôi hoặc hay bị bệnh tật sài đẹn thường đặt cho con những tên xấu xí để "quỷ thần" tha như Vẹo, Ðủi, Ðen, ... Có người không dám đặt tên con quá hay sợ bị quở hay chê cười. Thời xưa, các cụ còn phải tham khảo các bậc túc nho hoặc biết chữ và tỏ ra thận trọng trong việc đặt tên cho con cháu.


Tuy nhiên, theo thói tục, việc đặt tên thường được căn cứ theo truyền thống và tín ngưỡng, nhất là trên nguồn gốc và quyền lực có thể có của tên gọi. Tên gọi còn có thể diễn tả những ước ao hoặc lý tưởng đặt cho đứa trẻ mới chào đời như một thông điệp nhờ đứa trẻ tinh khiết làm người đưa tin hoặc báo tin cho đời. Từ khi hàng triệu người Việt phải bỏ nước ra đi chẳng hạn, nhiều người đặt tên cho con là Nam Quân, Phục Quốc, Hồi Hương,... cũng trong ý nghĩa đó. Nhà nhân chủng học Claude Le'vi-Strauss trong La pensée sauvage (1962) đã đề cao tầm quan trọng của ý nghĩa tiềm ẩn của tên gọi (4).


Ở hải ngoại, người Việt khi đổi quốc tịch có khuynh hướng đổi tên hoặc thêm tên gọi tiếng bản xứ, đã làm mất hẳn hay giảm đi yếu tố duy nhất và độc đáo của tên gọi. Dĩ nhiên có những tên gọi đẹp và đầy ý nghĩa trong tiếng Việt đã trở nên ... khó nghe khi phát âm theo tiếng bản xứ như Côn, Công, Dung, Dũng, Phúc, Quy, ...


Tóm một chữ, tên gọi có quan hệ đến tương lai của đứa trẻ và mọi người nói chung sẽ cùng mang tên gọi suốt đời.


Một cách cụ thể, tên gọi có thể là tên sông hồ, núi non, hoa quả, cây cỏ (Tùng, Bách, Mai, Trúc, Lan, Hòe, Quế,...), màu sắc, chim chóc hoặc cầm thú (Long, Lân, Quy, Phượng, Loan, Yến,...), bốn mùa (Xuân, Hạ, Thu, Ðông), tháng, năm (Tí, Sửu, Dần. Mão, Mẹo, Thìn, Tỵ,...), ngọc quý (Pha, Châu, Ngọc, Quỳnh,...), tên thuộc về loại kim (Cương, Chung, Liệu,...), loại đá (Thạch, Bích, Thạc, Nha, Sa, ...), phúc đức, phẩm hạnh hoặc hình dung tốt đẹp (Phúc, Lộc, Khang, Ninh, Thạnh, Vĩnh, Trường, ...). Nhiều người thông hiểu chữ Hán có khuynh hướng lấy từ kinh sách, châm ngôn, điển tích hoặc đặt tên theo bộ chữ Hán. Học giả Phạm Quỳnh, tên Quỳnh thuộc bộ Ngọc, nên đã đặt tên con theo cùng bộ Ngọc : Khuê, Dao, ... Người ta cũng lấy địa danh, chổ ở, nơi sanh quán hay nguyên quán hoặc tên các nhân vật tiểu thuyết (nhưng tránh lấy tên các nhân vật lịch sử). Cũng vì lý do tôn trọng tổ tiên, mọi người đều tránh lấy tên ông bà cha mẹ đặt cho con cháu, khác với người Tây phương. Cuốn gia phả là cẩm nang để con cháu tránh đặt trùng tên gọi với ông bà tổ tiên.


Về cách đặt tên trong một gia đình, có người đặt tên con cái theo vần hoặc lấy cùng một chữ cái, hoặc tất cả tên gọi các con tạo thành một ý hoặc dùng tất cả tên một loại mà đặt cho con: thí dụ tên bốn mùa, tên các phẩm hạnh (Hạnh, Nhân, Trí, Tín,..; Phước, Lộc Thọ,..) tên ngũ hành hay ngũ tinh (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ), ngũ phúc (Phú, Quý, Thọ, Khang, Ninh), tứ duy (Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ), tứ đức (Hiếu, Ðễ, Trung, Tín cho con trai; Công, Dung, Ngôn, Hạnh cho con gái), tứ linh (Long, Lân, Quy, Phượng). Trở ngại là khi con sanh ra nhiều hay ít hơn bộ chữ. Và cách đặt tên này chỉ dễ dàng trong xã hội xưa "tam thê bảy thiếp" và sanh con còn là "bổn phận" của phụ nữ như ghi trong luật Hồng Ðức và Gia Long cũng như đàn ông tuyệt tự còn là lỗi lớn với ông bà tổ tiên. Ðời nay, người phụ nữ bình quyền, ly dị đã thành thói thường, tình gia tộc ngày càng suy yếu thì cách đặt tên này ngày càng khó thực hiện.


Một khuynh hướng đặt tên khác cũng nên ghi nhận dù không thật sự phổ biến, đo là cách đặt một tên gọi cho tất cả con trai hoặc gái, chữ lót sẽ làm phần việc phân biệt mỗi đứa con. Con gái : Hồng Ly, Mai Ly, Trúc Ly; con trai : Anh Khoa, Tuấn Khoa, v.v.


Ngoài tên bộ là tên gọi chính thức trên giấy tờ hộ tịch, người ta có thể có thêm tên tục (vulgar name), tên cúng cơm, tên thân mật, tên lịch sự, do chính mình hoặc do người ngoài đặt cho mình. Trước khi có tên bộ thường đã có tên tục (domestic name) để gọi trong nhà; nhất là thời xưa chỉ khi đến tuổi đi học, cha mẹ mới làm giấy tờ hộ tịch cho con, lúc đó mới chọn tên đẹp đẽ cho con - đứa trẻ lúc đó sẽ có hai tên gọi, tên tục đã có và tên gọi ở trường (name at school). Các tên tục thường nghe : Cu Tí, Cu Nhớn, Cu Tẹo, Ðĩ Lớn, Ðĩ Con, Ðĩ Út,... Trong Nam người ta còn gọi con theo thứ tự: Hai, Ba, Tư,.. Tên bộ có thể thay đổi. Cụ Nguyễn Khuyến vốn tên Nguyễn Thắng vì rớt thi Hội năm 1865 đã xin đổi thành Khuyến. Nhà thơ sông Vị Trần Tế Xương từng đổi hai lần nhưng chỉ đổi tên lót, từ Cao thành Tế và cuối cùng là Kế.


3. Các tên khác :


Ngoài tên ra, người Việt có bút hiệu, bí danh khi cần và theo truyền thống Nho giáo và Trung-Hoa, ta còn có tên tự, tên hiệu, tên tước, tên thụy và tên đạo..


Tên tự là tên chữ, thường phải đi đôi với tên gọi (Danh) và theo kinh sách, thường là một câu chữ Nho có ý hay nghĩa lạ, như Tố-Như Nguyễn Du, Sĩ-Tải Trương Vĩnh Ký, Lệ-Thần Trần Trọng Kim, Ưu-Thiên Bùi Kỷ, Sở-Cuồng Lê Dư, Ứng-Hoè Nguyễn Văn Tố, Quán-Chi Ðào Trinh Nhất, ...


Khác với tên tự, tên hiệu và bút hiệu không theo nguyên tắc đi với tên gọi mà tự do lựa chọn, tùy sở thích. Tên hiệu (symbolic name) do chính đương sự hoặc cha mẹ đặt cho, thường có ngụ ý hoài bảo, chí khí như Sào-Nam Phan Bội Châu, Ức-Trai Nguyễn Trãi, Bạch-Vân Nguyễn Bỉnh Khiêm, Tiên-Ðiền Nguyễn Du, Hạo-Nhiên Nghiêm Toản, hoặc nói lên gốc gác, liên hệ như Tản-Ðà Nguyễn Khắc Hiếu, Lương-Ðường Phạm Quỳnh, ....


Bút hiệu (nom de plume, penname) là tên hiệu của người cầm bút, tự do đặt và có thể thay đổi nhiều lần hoặc dùng nhiều bút hiệu một lúc. Bút hiệu thường gồm hai chữ hoặc hơn và có thể mang hình thức của tên thật như Hồ Biểu Chánh (Hồ Văn Trung), Hoàng Cầm (Bùi Tằng Việt), Thẩm Thệ Hà (Tạ Thành Kỉnh), Cung Trầm Tưởng (Cung Thúc Cần), Dương Nghiễm Mậu (Phí IÙch Nghiễm), Lý Hoàng Phong (Ðoàn Tường), Tô Kiều Ngân (Lê Mộng Ngân), Nguyễn Kiên-Trung (Nguyễn Mạnh Côn), Hà Thượng Nhân (Phạm Xuân Ninh), Mai Trung Tĩnh (Nguyễn Thiệu Hùng), Vương Ðức Lệ (Lê Ðức Vượng), Trần Thy Nhã-Ca (Trần Thị Thu-Vân), Trần Tuệ-Mai (Trần Thị Gia-Minh), Hoàng Hương Trang (Hoàng Thị Diệm Phương), Lê Xuyên (Lê Bình Tăng), Tô Thùy Yên (Ðinh Thành Tiên), Chu Vương Miện (Nguyễn Văn Thưởng), Phạm Thiên Thư (Phạm Kim Long), Trần Dạ Từ (Lê Hà Vĩnh), Võ Phiến (Ðoàn Thế Nhơn), Trần Hoài Thư (Trần Quý Sách), Vũ Hạnh (Nguyễn Ðức Dũng), v.v.. Bút hiệu có thể là tên địa lý như sinh quán, trường hợp của Tô Hoài, Thanh Châu, Sa-Giang Trần Tuấn Kiệt, Kiên Giang Hà Huy Hà, có khi do đảo lộn tên thật như Biển Ngũ Nhy (Nguyễn Bính, thân phụ nhà văn An Khê), Khái Hưng (Trần Khánh Giư), Thế-Lữ (Nguyễn Thứ Lễ), J. Lebai (Lê Bái), có khi có thể chỉ là tên những người thân yêu như Mai Thảo, Thế Uyên, Thanh Tâm Tuyền, thậm chí có khi do tình cờ như Tam IÙch trước đã hay ký mật hiệu XXX. Nhiều nhà văn không hề dùng bút hiệu như Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Thị Vinh, Nguyễn Mộng Giác. Có nhà ký tên thật nhưng lược tên gọi như Nguyễn Bính (Thuyết), Phạm Duy (Cẩn), hay lược họ như Nguyên Hồng (Nguyễn), Hữu Loan (Nguyễn), Huy Cận (Cù), Xuân Diệu (Ngô), Nhật Tiến (Bùi), Túy Hồng (Nguyễn Thị). Có người lại chỉ nỗi tiếng với tên thật như Hồ Hữu Tường, Võ Hồng, Nguyễn Ngọc Ngạn, v.v.


Riêng "biệt danh" hay "sước hiệu" (surnom, deuxième prénom, sobriquet ; nickname) thường do người khác đặt cho, gán cho và thường có ý trêu chọc hoặc miêu tả ác ý diện mạo hoặc tật xấu của người đó. Nhà văn Nguyễn Tuân có sước hiệu là "Tuân mũi to", Phạm Quỳnh "kính trắng tiên sinh", một cựu tổng thống miền Nam "tổng lì", v.v.


"Tên tước" hay "tước hiệu" thường được phong cho, chỉ thấy ở giới quý tộc, quan lại: Ôn-Như hầu Nguyễn Gia Thiều, Tùng-Thiện vương Miên Thẩm, v.v.


Bí danh thường được những người làm chính trị, cách mạng và cả công an, quân đội sử dụng để bảo mật. Bí danh khác với tên "cách mạng" như của một số đảng viên cộng sản ở Việt Nam, trong thực tế là một cách đổi tên, muốn dâng hiến cho công tác hay chối bỏ quá khứ, gia đình: Lê Ðức Thọ, Mai Chí Thọ, Xuân Thủy, Trường Chinh, v.v.


Trong các tên khác có "tên thụy" tức tên hèm (posthumous name). Khác với "tên cúng cơm" là tên vốn có của một người khi mới sanh hay lúc nhỏ, tên hèm là tên tự chọn khi tuổi già để dùng vào việc cúng giỗ và thờ phượng, ý là người chết sẽ biết tên mà về. Nếu không kịp tự chọn, người nhà tìm đặt cho người vừa chết để con cháu khấn vái, cúng giỗ. Tên thụy còn là tên ghi vào sớ hoặc do nhà vua truy tặng để tưởng nhớ công đức người chết. Tục lệ đặt tên thụy khởi từ đời Tây Chu bên Trung-quốc : đình thần căn cứ vào sự nghiệp hoặc hành vi, đức độ của nhà vua lúc còn sống mà đặt tên thụy cho vua. Lúc đầu thường dùng một trong bốn chữ Văn, Vũ, U và Lệ nhưng về sau chỉ dùng Vũ và Văn là hai chữ để khen. Sau lại đổi thành "miếu hiệu" như vua Gia Long có miếu hiệu Thế-tổ Cao Hoàng-đế, Tự Ðức được tặng là Dực-tôn Anh Hoàng-đế, v.v.


Riêng "tên húy" tức tên phải kiêng tránh, thường là tên thành hoàng của làng xã hoặc tên của vua chúa và hoàng gia cũng như miếu hiệu, hoặc tên của quan lớn sở tại. Người dân giả lỡ trùng tên phải đổi hay đọc trại ra hay lệch đi. Phan Huy Chú vốn tên tục là Hiệu vì kiêng húy đã phải đổi thành Chú. Ðời vua Minh Mạng thứ 13 (1832) còn đặt ra lệ hễ các quan cùng tỉnh trùng tên thì người kém phẩm trật phải đổi tên. Ðó là lý do Cảnh đọc thành Kiểng, Thái thành Thới, Hòa thành Huề, Anh thành Yêng, v.v. Hay tìm tiếng giống nghĩa mà thay vào : Riêu thay Canh, Tập thay Học, v.v. Ngày xưa đi thi mà không biết để tránh tên húy là phạm trường qui, bị hỏng thi đã đành, có khi còn bị tù tội.


Cuối cùng là "tên đạo" : nếu theo đạo Phật là "pháp danh" (Buddhist religious name), là những tên đặt khi quy y; nếu theo Thiên Chúa giáo, có "tên thánh" (nom de baptême, patron-saint's name) khi rửa tội, thí dụ Pétrus Ký tức Trương Vĩnh Ký. Có ngộ nhận cho rằng tên thánh là lai căng mất gốc. Thật ra tên thánh là tên chỉ dùng trong phạm vi tôn giáo, cũng như phápđanh của người theo đạo Phật, còn thì người theo đạo Thiên Chúa hay Cơ Ðốc vẫn mang tên họ như bất cứ người theo đạo nào khác. Ngộ nhận này đã dần mất sau biến cố 30-4-1975 khi người Việt vì nhu cầu hội nhập ở nước ngoài, đã lấy cả tên gọi của người bản xứ.


TÊN HỌ NGƯỜI VIỆT Ở XỨ NGƯỜI


Sau khi đã trình bày lịch sử, nguồn gốc và ý nghĩa họ tên người Việt, chúng tôi xin được bàn đến một số vấn đề liên quan đến việc xử dụng tên họ và khía cạnh chính tả của tên họ Việt Nam dùng ở xứ người nói chung.


Phương cách lý tưởng nhất vẫn là phép viết họ tên như ở quê nhà. Người Việt ở Pháp vẫn theo giải pháp này vì người Pháp đã quen với tên họ người mình từ thời thực dân ở Việt Nam, biết phân biệt họ với tên.


Sau 1975, hàng triệu người Việt đã bỏ nước tới định cư ở nhiều nước khắp thế giới. Vấn đề viết tên họ được đặt ra khi hệ thống hành chánh bắt buộc và sự xử dụng máy điện toán trở thành phổ thông. Người Việt phải thật sự đương đầu với tên họ của chính mình. Nhu cầu nảy sinh tìm hiểu tên họ, giải thích cho người bản xứ và ngay cả lựa chọn họ tên mình. Ðó là chưa kể những trường hợp hy hữu phải kể cả giai thoại mới mong có người hiểu như tên họ con cháu nhà Nguyễn. Sở di trú làm sao hiểu được cha họ Vĩnh mà con ruột lại họ Bảo !


Ở Việt Nam ta vẫn có thói quen lấy tên gọi (prénom, first name) làm mốc để lập danh sách: Nguyễn An-Khang sẽ được liệt kê ở vần Kh, trước Khanh và sau Kha. Cách dùng này có từ đã mấy ngàn năm và được sử dụng trong mọi trường hợp, từ thư tịch, lịch sử cũng như sổ lương bổng, danh sách cử tri, ở học đường.


Một khi ở hải ngoại, dù thế nào đi nữa, ta vẫn phải giữ lấy "họ" (family name, nom de famille) cho minh bạch. Có người cốt tránh hiểu lầm hay cốt dễ phát âm, vì muốn tránh họ một chữ cụt ngủn như "Lê", "Lý", "Ðỗ", "Võ / Vũ", đã ghép tên lót vào làm họ mới : Lê Văn, Ðỗ Văn biến thành "Levan", "Dovan". Phái nữ thường họ tên dài có khi gồm 4, 5 chữ, thành ra có người ghép tên lót "thị" vào làm họ : Võ Thị thành Vothi. Dễ cho người bản xứ nhưng đồng hương làm sao nhận ra nhau, nhất là người đó lại có tên gọi theo người bản xứ như Mike, André, Katherine, Joseph, v.v. !


Trong trường hợp "họ kép", ta cứ dùng họ kép như người bản xứ, đàn ông cũng như đàn bà (vì lập gia đình theo dân luật cũ), thí dụ Maurice Marleau-Ponty, Claude Le'vi-Strauss, Cecil Day-Lewis, vv. Vậy Phan-Trần Nam và Ðặng-Vũ Tuấn-Kiệt nên trở thành Nam Phan-Tran và Tuan-Kiet Dang-Vu. Với cách này, ta còn có thể phân biệt họ kép với họ đơn + tên lót vì tên lót vẫn nên giữ thứ tự của nó dù họ tên có phải đảo ngược theo người bản xứ: Nguyễn Thị Nhị nên trở thành Nhi Thi Nguyen.


Về họ kép, cả hai yếu tố phải viết hoa và nên dùng gạch nối. Theo lệ tổng quát và phép chính tả Việt ngữ, tất cả những yếu tố bổ túc cho nhau về ngữ ý phải viết với gạch nối, cũng như những yếu tố chính trong danh từ riêng (địa lý hoặc họ, tên) phải viết hoa. Trên nguyên tắc, "Văn", "Thị" và tất cả những chữ lót chung như "Ðình, Ngọc, Xuân, Huy,..." tương đương với "von, vonder, von und zu" của người Ðức, "op de, ten, van den, van der" của người Hà Lan không phải viết hoa và không được gạch nối với họ cũng như tên (nhưng vì nhu cầu thực tế, chúng tôi viết hoa trong bài này). Từ khi có chữ "quốc ngữ" la tinh, trên các sách báo xuất bản ở Việt Nam, các nhà văn nhà báo có thói quen gạch nối tất cả các yếu tố của họ tên, ngay cả trường hợp chỉ có 2 yếu tố như Nguyễn Du, Phạm Duy. Ðiều này nhiều nhà ngữ học Việt Nam không chấp nhận. Về ngữ ý cũng như theo truyền thống, cách dùng này rất sai lầm.


Ðối với "tên kép", ta nên giữ thứ tự của cả hai yếu tố tạo thành vì trong nhiều trường hợp, nếu đảo ngược tên kép đó sẽ mất hết ý nghĩa đối với người Việt và khó mà cắt nghĩa với người bản xứ ý nghĩa tên của mình. Một khuynh hướng dung hòa dùng cả hai tên gọi kép để con cái có thể xử dụng theo nhu cầu ở xứ người hay sau này về nước: Catherine Hy-Khuê, Joseph An-Khang. Nói chung, ta cứ dùng "tên kép" như người bản xứ : Jean-Paul Sartre, Paule-Andrée T., Jean-Marie B.. Do đó Lê Hào-Kiệt nên viết là Hao-Kiet Lê, Nguyễn Joseph An-Khang thành Joseph An-Khang Nguyen hơn là Kiet Hao Le và Joseph Khang An Nguyen. Vũ Thị Ngọc-Lan, Trần Thị Bích-Ngo.c thành Ngoc-Lan Thi Vu và Bich-Ngoc Thi Tran, tránh Bich-Ngoc Tran-thi hay Thi Bich Ngoc Tran và Lan Ngoc Thi Vu, vì Lan-Ngo.c và Ngọc-Bích khác nghĩa với Ngọc-Lan và Bích-Ngo.c! Cũng vậy, Cung Văn Hòa nên đổi thành Hoa Van Cung thay vì Hoa Cung Van. Riêng đối với tên họ dài như họ hậu duệ nhà Nguyễn, ta có thể viết tắt yếu tố tên dệm.


Họ tên phái nữ là một phức tạp khác. Khác với người Tây phương, người đàn bà Việt Nam dù đã lập gia đình vẫn xử dụng tên họ con gái trên giấy tờ hộ tịch, hành chánh và thư từ, dù ngoài đời họ vẫn thường được gọi theo tên gọi của chồng, nhất là trong giới trí thức và chính trị gia: bà giáo sư Tăng Xuân An, bà đại sứ Trần Văn Chương, v.v.. Người đàn bà Tây phương từ tạo thiên lập địa tới gần đây đã không có những "quyền lợi" đó của nữ giới con Rồng cháu Tiên, họ phải đổi lấy họ chồng một khi lập gia đình. Mọi người chỉ biết họ qua họ chồng, dù làm thủ tướng và dù đã ly dị. Khi các bà khám phá gì mới cho nhân loại hay ra luận án tiến sĩ, người ta cũng chỉ biết họ qua tên chồng: bà Marie Curie, mấy ai biết họ bà là Sklodowska và là người Ba-lan !


Mấy thập niên gần đây, dưới áp lực của các phong trào đòi bình quyền của nữ giới, dân luật nhiều quốc gia đã bắt đầu cho các bà đổi lấy họ thời con gái và còn đi xa hơn khi không còn bắt phải có tên cha cho đứa trẻ sơ sinh và đứa bé có thể lấy họ mẹ. Nữ giới Việt Nam đến xứ người đông đảo vào cuối thời thịnh đạt của chế độ tộc trưởng, phải theo luật xứ người mà mất họ gốc, từ nay có thể đổi lấy lại họ thời con gái.


***


Ở Việt Nam khó mà nói rằng người mình lầm lộn nhau vì tên họ hiểu theo nghĩa rộng. Họ được bổ túc bởi tên gọi và chữ lót chung hoặc tên thế hệ, luôn tạo thành một đơn vị độc đáo. Một lớp học có thể có nhiều học sinh tên Hùng, nhưng khác họ và tên lót. Ngoài ra ta còn có nhiều cách để phân biệt nhau tùy hoàn cảnh, bằng nguồn gốc địa lý, bằng chức tước, địa vị xã hội, bằng lãnh vực chuyên môn hay nghề nghiệp, bằng diện mạo, gốc gác, cha mẹ, họ hàng, v.v..


Hoàn cảnh sống mới ở xứ người đặt người Việt trước những lựa chọn khó khăn về văn hóa. Hội nhập hay giữ bản sắc nguồn cội? Uốn theo tục người hay nên giữ phong hóa dân tộc? Nên "Pháp hóa" / "Anh hóa" tên Việt như đã từng xảy ra với những người Do thái và Ðông Âu ở Pháp hay Bắc Mỹ (5). Thiết tưởng sự sống còn của văn hóa Việt Nam ở ngay những đặc điểm Việt. Một trong những đặc điểm đó là tên họ Việt Nam. Làm sao giữ được tên họ tức gốc nguồn thì ta vẫn là ta. Nếu để mất gốc, mình sẽ hết là mình mà ta cũng chẳng còn là ta. Tên họ vừa là vốn liếng văn hóa vừa là ký hiệu làm người. Họ tên là yếu tố văn hóa nền tảng của một dân tộc và là báu vật văn hóa mà tổ tiên đã để lại cho con cháu, nhất là tổ tiên Việt Nam đã luôn ở vào thế chẳng đặng đừng, bị động, luôn bị xâm lăng và thu hút bởi những nền văn hóa vừa mạnh vừa bạo như Hoa Ấn lân bang và Tây phương thực dân. Ngày nay con cháu Việt đang phải chịu nhận văn hóa người và ở ngay trên lãnh thổ của người ! Hy vọng một số ý kiến đã trình bày sẽ giúp ích cho người Việt trong việc xử dụng, cải đổi hay vay mượn tên họ nơi xứ người.


 







 

Gia Phả VÕ - BẾN TRE
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc VÕ - BẾN TRE.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc VÕ - BẾN TRE
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.