Ta thà làm ma Nhà Lê, còn hơn làm quan Nhà Ngụy Mạc" Là lời tuyên bố của trung thần Hàn Lâm Viện Hiệu Lý Nguyễn Thái Bạt, Tiến sĩ - Hoàng Giáp khoa thi Canh Thìn năm 1520, quê tại Bình Lãng - Cẩm Giàng - Hải Dương ( Nay là thôn Bình Phiên - Xã Ngọc Liên - Huyện Cẩm Giàng - Tỉnh Hải Dương) một Danh Nho - Văn Thần Tiết Nghĩa, đã dấy lên ngọn cờ "Phù Lê diệt Mạc", giúp cho nhà Lê Trung Hưng, lời nói còn vang vọng với non sông, vang vọng đến hôm nay và đến mai sau. Đó là khí tiết can trung của Đức Thủy Tổ Nguyễn Thái Bạt của chúng ta.Thần phả ghi chép về Đại vương, Triều vua Lê Chiêu Tông thời hậu Lê ( Thuộc hạng trung trong bộ Cấn chi) là chính bản của bộ Lễ triều LêXưa vào niên hiệu Chiêu Tông thời hậu Lê có ông họ Nguyễn tên là Hanh, người làng Bình Lãng, huyện Cẩm Giàng - Tỉnh Hải Dương, được thừa hưởng tập ấm tổ tiên lấy bà Lê Thị Đạt, người cùng quận, là dòng dõi thi thư trâm anh thế phiệt. Đây thực là cuộc hôn nhân môn đăng hộ đối. Ông Hanh hàng ngày dạy trẻ học khá tinh thông nghề y chữa bệnh lấy chuẩn cấp cho người làm niềm vui. Ông lại luôn luôn khuyến miễn làm việc thiện. Việc thiện dù nhỏ ông cũng làm, việc ác chỉ chút xíu mà hại người ông không bao giờ làm. Nổi bật là ông không có một chút tâm tư nghĩ ngợi cho mình. Địa phương đây đều khen là một nhà tích thiện ( Gom chứa điều thiện) hẳn sẽ có niềm vui lớn. Song ông bà cao tuổi mà chưa có con trai. Một đêm nọ bà họ Lê, đã cuối canh ba đang nằm trong nhà. Bà bỗng kinh hoàng nằm mộng thấy mình nuốt mặt trời. Tỉnh dạy bà nói với ông, ông bảo " Hẳn là có điềm lànTừ đó bà họ Lê có thai ( Bấy giờ là mồng 10 tháng giêng năm Giáp tí) 1504, bà sinh cậu con trai thiên tư dĩnh ngộ, thể chất mạnh khỏe khôi ngô. Ông nói " Phúc có sự trùng lai, đó là trời cho phúc lớn". Ông bà rất yêu quý và đặt tên cậu con trai là Thái Bạt ( Thái có nghĩa là: To lớn; Bạt có nghĩa là : Cao chót vót hơn người), ông bà chăm sóc nuôi dưỡng cậu bé- Nên 3 tuổi đã có thể biết lễ nghĩa, nghe giảng biết cách phát âm- Nên 7 tuổi cậu học thày Nguyễn Văn Vận ( Đô ngự sử triều Lê)- Năm 13 tuổi đã tinh thông, kinh sử, tài năng hơn đời, các sĩ tử đều thán phục cậu. Ai cũng phải khen là thần đồng, sau này vào đời chẳng phải người thư Thời gian ấy vua Lê Chiêu Tông lên ngôi, ngay năm đầu (1516), nhà vua có chiếu chỉ xuống khắp thần dân thiên hạ xem có người nào, thông minh tài trí, tinh thông văn võ, cùng với nết hiếu thảo, liêm khiết, hiền lương đứng đắn ngay thẳng thì nhà vua sẽ mở khoa thi hương, thi hội, thi đình, các châu huyện phải cử người đến ứng tuyển để nhận công việc làm quan và tước vịNgay hôm đó Thái Bạt nghe được chiếu chỉ của thiên tử. Các ông trạng tương lai ở khắp nơi trong nước, văn bút như múa may trong lòng, như hình ảnh sinh động của rồng phượng, các vì tinh tú như rơi xuống sông nước lạnh, thế trận mới bày mà hổ báo hồn kinh phách lạc.Tiếng sấm vang dồn tới đạo Hải Dương, lấy ông là người ứng cử thi hương. Khi yết bảng, gọi tên Nguyễn Thái Bạt, mới một lần thi ông đã đậu hương cống, đứng thứ ba ( Đó là khoa thi Bính Tí 1516). Ngày hôm đó ông lĩnh áo mũ về làng, thiên hạ ai cũng biết người thiếu niên ấy đã có tên ở Bảng VànCha ông truyền bảo mổ trâu, mổ lợn bái yết thần từ và các vị tổ tiên trong dòng Họ, tiếp theo là khao Phủ Huyện, làng xóm. Công việc xong xuôi, ngay sau đó ông xin phép cha mẹ đi du ngoạn những nơi thắng cảnh, quan sát phong tục nhân dân. Một hôm ông tới vùng Sơn Nam Thượng Đạo( Sau này đổi là phủ Khoái Châu, thành Thăng Long về sau thuộc Hưng Yên) xã Lai Cách huyện Phù Cừ,( Sau đổi là làng Phan Xá). Tới địa đầu làng này ông đã thấy một vùng sông nước quanh co, địa thế như Long bàn Hổ cứ gò đống không cao, nước chảy cát bồi. Ông cho đây là nơi thắng cảnh hữu tình, phong quang đẹp đẽ. Ông lại thấy nhân dân phong tục thuần phác, ít học nên ít kiến văn. Nhân đó ông truyền bảo nhân dân xây dựng nhà học. Ông dạy học ở đây được vài năm (4 năm), nhân dân đều ngưỡng mộ và trình độ văn học của dân chúng đã tinh thông. Nơi đây trở nên một làng có lễ nghĩa vậy. Vào dịp này Vua Lê Chiêu Tông lại có chiếu truyền cho các châu huyện, những Văn Thần nào đã đỗ kỳ thi hương cống thì về kinh đô dự khóa thi đình để chọn lấy trạng nguyên. Chỉ một thời gian rất ngắn sau khi nhận chiếu chỉ nhà vua, gia thần đã chuẩn bị chu đáo cho ông trở lại kinh, ông làm văn tiến nạp. Ngày hôm đó ông thấy được gọi tên trên bảng, ông đậu Đệ nhị Tiến sĩ- Hoàng Giáp, (ông đỗ Thủ Khoa, khoa thi Canh thìn năm 1Ngày hôm đó ông lĩnh nhận áo gấm bái tại đế đình về làng, từ đó ông được ân trạch triều đình, bõ công đèn sách.Đến năm 19 tuổi thì cha mẹ đều qua đời, ông chọn nơi đất tốt hành lễ cho hai cụ yên nghỉ. Ba năm xong tang nhà vua lại triệu ông về kinh, bổ dụng làm Hàn Lâm Viện Thị Thư. Ông vừa nhận quan tước ấy cũng là lúc họ Mạc nổi dậy ép vua Chiêu Tông phải nhường việc điều hành chính sự trong nước ( Người đó tên là Mạc Đăng Dung) ông ta là người bạo ngược, hung tàn, ngầm rắp tâm cướp ngôi Thời gian này các quần thần đề bất chính, kịp đế khi Mạc Đăng Dung dụng tâm giết Vua, Vua băng hà.Ông Nguyễn Thái Bạt từ quan trở về quê cũ (Hải Dương) đoạn ông trở lại Phan Xá an cư và nghỉ ngơi. Thời gian này nhân dân trong đó có các vị phụ lão, các sĩ tử đều đến mừng ông và thưa với ông ngày ngày vẫn tự giáo hóa, cho nên ngày nay nhân dân quả đã có thuần phong mỹ tục. Nhân dân lại xin với ông tiếp tục mở trường học, sau đó là việc tế tự đối với học trò (các đệ tử) ông cũng coi như con. Nhân dân trong bản trang ngưỡng vọng công đức ông không dám vong ân bội đức.Tất cả những việc nhân dân đề xuất, ông hứa sẽ thực thi, ông nói với các vị phụ lão gia thần rằng: " Từ nay ta có tước vị vẻ vang, ta nghĩ, người bề tôi trung chẳng bao giờ ăn ở hai lòng" Ông lại dạo chơi các khu, các trang ấp, thấy các con em gia thần lúc bình sinh được vui nghe giảng tập, nếu như ngày nay trang ấp các người coi trọng tôi đến muôn năm sau mà phụng sự tôi. Nói đoạn ông bèn cho các vị phụ lão các đệ tử, gia thần 5 hốt bạc lớn. Sau đó ông lại mua nhiều ruộng tự điền ( Ruộng cúng tế, cúng giỗ) để sung vào việc kính tế ông.Sau đó ông trở về trang Bình Lãng, huyện Cẩm Giàng, đến đầu làng ông truyền bảo các gia thần, sĩ tốt ( Lính hầu Quan) đặt tiệc cùng nhau yến ẩm. Ông than rằng: " Nghĩa lớn Vua Tôi, há quên sao được" Tự nhiên thấy trời tối sầm, có một đám mây vàng như hình tấm lụa đỏ từ trên trời giáng xuống giữa dinh ( Quan dinh ; nơi ở của quan) người ta thấy ông bay theo đám mây đến xứ đồng Khu Đông thì không thấy, ông đã hóa vậy ( Ngày ông hóa là ngày 15 tháng 3 )Trong khoảng khắc trời lại quang mây sĩ tốt, gia thần đều cả kinh, về lập miếu thờ cúng ông.Đến nay việc ghi chép các công thần triều vua Lê Thế Tông ( 1573 - 1600 ) thấy có tên ông là bậc Danh Thần có công ở triều Lê, nhà vua sai sứ giả đem Sắc Phong nguyên chữ là thần hiệu:- Phong " Thái Bạt linh ứng Đại vương"- Tặng phong: " Linh Tế, Linh diệu, Bảo Cảnh An Dân, Khuông Phù Tá Trị, Hiển Hiện Trung Liệt Đại Vương".- Gia tặng bài thơ như sau:" Hổ bảng đề danh tảo trí thân.Hảo tương trung hiếu đáp quân thân.Sinh tam sự nhất chân vô quý.Tu sát hoàng kim hoạch đới nhânDịch nghĩa là:Sớm đặt thân mình có tên trong Hổ Bảng ( Đỗ cao)Lại có lòng trung hiếu giữ tốt đạo quân thânKhi sống ông có ba điều, lấy ba điều để phục vụ cho mục đích cao cả quả không hổ thẹn.Ông còn đem vàng ròng ban phát cho mọi người Từ đấy trở đi ông (Thái Bạt) rất linh ứng. Cho nên các bậc Đế Vương các đời đều gia phong mỹ tự "Anh Linh" Sắc Chỉ ban cho trang Phan Xá tu miếu điện để thời phụng ngài, thật là điều vui mừng vậy thay!Khi phụng sự ngày sinh, ngày ông hóa các cỗ bàn, đều cấm ngặt không được kêu tên húy hai chữ " Thái Bạt " chuẩn y cho trang Phan Xá phụng sự. Sắc phục màu vàng, màu tía đều cấm kị khi hành lễ.Ngày sinh của thần là ngày 10 tháng giêngLệ chính: Dùng lễ Thượng Trai, hương hoa quả phẩm tùy nghi, tổ chức hát xướng ba ngày.Ngày Hóa của Thần là ngày 15 tháng 3Lệ chính: Dùng lễ Thượng Trai, bàn dưới có thịt lợn đen, xôi, rượu, bánh dày, bánh trưng.Ngày tốt tháng manh xuân( Tháng giêng) năm Hồng Đức niên nguyên (1557) Hàn Lâm Lễ Viện, Đông Các Đại học thần là Nguyễn Bính soạn bản chính Hoàng Triều ngày tốt, tháng trọng thu ( Tháng 8I- DI SẢN HÁN NÔM TẠI ĐÌNH LÀNG PHAN XÁ- XÁ TỐNG PHAN- PHÙ CỪ- HƯNG Y ÊN 1- BÀI VỊ THỜ Hiện nay bài vị còn ghi: Lê triều Bảng nhãn, Hàn lâm thị thư Nguyễn Công húy Thái Bạt lịch phong Trung Liệt Đại Vương, Đương Cảnh Phúc Thần.2- HOÀNH PHI ĐẠI TỰ: Thiên thu chính khí Khí tiết chính trực ngàn thuLưu danh thiên cổ Lưu danh nghìn thửa Địa linh nhân kiệt Đất linh sinh ra người tài giỏi Thượng đẳng tối thần Thân thiêng nhất trong hàng thưởng đẳng 3- CUỐN THƯ: Hổ bảng danh dề tỏa trí thân Hảo tương trung hiếu đáp quân thân Sinh tam sự nhất chân vô quý Tu sái hoàng kim hoành đới nhân. Dịch nghĩa Bảng hổ đề danh sớm nổi thân Dốc lòng trung hiếu đạo con dân Thờ ba như một lòng không thẹn Chán cảnh vàng son gương thế nhân 4- CÂU ĐỐI: Tú khí sở chung tự cổ hiển linh vu tư ấp Minh thần chi tứ dữ dân tương lạc ư thử đình Dịch nghĩa Hun đúc khí tốt lành, từ xưa đã hiển linh ra tại đất này, Được phong đáng minh thần, vui cùng dân cũng ở đình đây Phù Lê cừu Mạc thanh danh hiển hách tráng sơn hà, Thóa diện trung can nghĩa khí anh hùng lưu vạn cổ. Dịch nghĩa Giúp nhà Lê, hận triều Mạc, tiếng tăm hiểm hách với núi sông, Nhổ vào mặt, có gan trung, nghĩa khí anh hùng còn muôn thửa. 5- SẮC PHONG: * Sắc Phong Ngày 24 tháng 5 năm Tự Đức thứ 6 ( 1853) Sắc ban cho làng Phan Xá huyện Phù Cừ tỉnh Hưng Yên, nguyên trước đây chưa có dự phong vị hiệu thần đã cúng lễ. Nay nhờ mệnh sáng suốt của nhà Vua long trọng đón nhận ân trạch thấm nhuần khắp, đặc biệt chuẩn cấp cho vị thần là Thành Hoàng làng một Đạo Sắc văn cho vị Bản Cảnh Thành Hoàng là vị thần giúp Linh ứng. Xã này phải phụng sợ thần để ngài bảo vệ giúp đỡ cho dân. Kính trọng thay !Ngày 24 tháng 5 năm Tự Đức thứ 6 ( 1853) * Sắc Phong Ngày 24 tháng 5 năm Tự Đức thứ 6 ( 1881) Sắc chỉ cho làng Phan Xá huyện Phù Cừ tỉnh Hưng Yên, từ trước đến nay đã phụng sự vị Linh Thần Bản Cảnh Thành Hoàng giúp đở cho dân chúng nay ban cấp Sắc Phong chuẩn theo lễ tiết phụng sự ngài. Năm Tự Đức thứ 31 (1879) gặp đúng dịp đại khánh tiết Trẫm 50 tuổi đã từng ban chiếu chỉ nhân dịp lễ long trọng này, nhờ ơn sâu sắc, đặc biệt chuẩn y phụng sợ thần như lệ cũ, được ghi vào điển tự trong dịp quốc khánh này. Kính trọng thay !Ngày 24 tháng 11 năm Tự Đức thứ 33 ( 1881) * Sắc Phong ngày mồng 1 tháng 7 niên hiệu Đồng Khánh thứ hai ( 1887) Sắc cho vị thần phú trợ linh thiên Bản Cảnh Thành Hoàng. Từ xưa tới nay Ngài có công bảo vệ đất nước, che chở cho dân rất linh ứng. Dịp lễ tiết Ngài được ban tặng Sắc Phong lưu giữ ở điển tự. Nay nhờ mệnh sáng suốt của nhà Vua tưởng nhớ tới công lao che trở của thần đã lâu nên gia tặng Ngài là : Dực Bảo Trung Hưng thần. Quyết định cho làng Phan Xá, huyện Phù Cừ, Tỉnh Hưng Yên theo đúng lệ cũ phụng sự thần, để thần giúp đỡ bảo vệ cho dân chúng Kính trọng thay !Ngày mồng 1 tháng 7 năm Đồng Khánh thứ hai ( 1887) * Sắc Phong Ngày 18 tháng 3 niên hiệu Khải Định thứ hai ( 1917) Sắc cho làng Phan Xá, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên, phụng sự vị Đại vương linh ứng Nguyễn Thái Bạt, một vị tôn thần thường rất linh ứng. Nay nhờ mệnh sáng suốt của nhà Vua phong cho Ngài là " Dực Bảo Trung Hưng Linh Phù Tôn Thần" Dân xã đó mà phụng sự Ngài, ngõ hầu thần giúp đỡ bảo vệ cho. Kính trọng thay !Ngày 18 tháng 3 năm Khải Định thứ hai ( 1917) * Sắc Phong Ngày 25 tháng 7 niên hiệu Khải Định thứ 9 ( 1924) Sắc cho làng Phan Xá, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên, nguyên trước đây nhà Vua có tặng " Dực Bảo Trung Hưng" phù giúp nhà Lê là vị Bảng Nhãn Thị Thư Nguyễn Thái Bạt là Đại Vương tôn thần bảo vệ đât nước, che chở nhân dân thường linh ứng. Nay nhân dịp Tứ tuàn đại khánh của Trẫm ban cấp sắc phong theo đúng lời hứa, theo đó mà phụng sự Ngài nhờ ơn sâu sắc của dịp lễ long trọng này, đã có chiếu chỉ gia tặng là " Quang Ý Trung Đẳng Thần" Chuẩn y việc phụng sự Ngài, ghi vào tự điển nhân dịp quốc khánh. Kính trọng thay !Ngày 25 tháng 7 năm Khải Định thứ 9 ( 1924) II- DI SẢN HÁN NÔM TẠI VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM LƯU GIỮ. 1- NGỰ CHẾ TỐNG VỊNH CỦA VUA TỰ ĐỨC Q5 - KÝ HIỆU VHv. 1559/2. Bản khắc gỗ của Triều đình nhà Nguyễn có ghi về Tiến sĩ Nguyễn Thái Bạt như sau: Dịch nghĩa:Nguyễn Thái Bạt theo sử ký chép rằng : " Nguyễn Thái Bạt, người xã Bình Lãng, huyện Cẩm Giàng. Đỗ Tiến sĩ triều vua Lê Quang Thiệu (1520), làm quan ở Hàn Lâm Viện. Khi họ Mạc đoạt ngôi vua Lê Chiêu Tông, Thái Bạt mượn cớ có tật mắt mù, không chịu khuất phục theo nhà Mạc, nhưng Mạc Đăng Dung vẫn ép ông vào triều kiến; ông xin được ngồi đối diện tiếp kiến. Nhân đó ông thóa mạ mắng nhiếc vào mặt Đăng Dung, liền bị hãm hại. Sau này nhân dân Cẩm Giàng lập miếu thờ ông " Có thơ khen rằng: Thử nhật sơn hà bất nhẫn khan,Dã cam mông cổ độc tân quan,Nhất Triều thóa diện kham ô nhĩ,Phi thị sổ gia khả tự can. Dịch nghĩa: Sơn hà như vậy, không thể nhẫn tâm đứng nhìn,Cam chịu mù lòa, một mình để tâm xem xét,Vào chầu nhổ mặt, không chịu ô nhục cùng nhà ngươi (1)Khen chê thế nào, để người sau tự đánh giá. Chú thích: (1) Nhà ngươi: Chỉ nhà Mạc 2- TOÀN LÊ TIẾT NGHĨA LỤC - KÝ HIỆU A. 1444 TRANG 8 . Mục Hậu Lê Công thần lục Sách chép tay có ghi : Dịch Nghĩa:Nguyễn Thái Bạt, người xã Bình Lãng, Huyện Cẩm Giàng, Thi đỗ Tiến sĩ chính khoa Canh thìn niên hiệu Quang Thiệu thứ 5 ( 1520) đời vua Lê Chiêu Tông; làm quan ở Hàn Lâm Viện. Khi vua Lê Chiêu Tông bị cướp ngôi chạy khỏi Kinh Thành, ông vì tiết nghĩa mà chết. Hữu vịnh thi vân ( Có thơ khen rằng): Phiên âm: Hổ bảng danh cao tảo trí thân,Hảo tương trung nghĩa đáp quân thân,Sinh tam sự nhất chân vô quíTu sát đương thời ngọc đới nhân . Dịch Nghĩa Danh cao bảng hổ sớm thành công,Muốn đem trung nghĩa đáp quân thân.Sinh tam sự nhất thật chẳng thẹn ,(1)Để không xấu hổ với đương quan .(2) Chú thích: (1) Sinh tam sự nhất : Tức là người Quân tử sinh ra ở chế độ phong kiếm xưa, theo Nho giáo có 3 đạo lớn: Đạo vua tôi, đạo vợ chồng, đạo cha con. Trong câu thơ này ca ngợi Nguyễn Thái Bạt đã làm được một đạo lớn là đã làm tròn đạo vua tôi. (2) Đương quan : Nguyên văn là " Đương thời ngọc đới nhân" ( Người đương thời đeo ngọc) Túc người làm quan đương thời theo nhà Mạc. 3- LÊ TRIỀU KHIẾU VỊNH THI TẬP CỦA HÀ NHIỆM ĐẠI. Theo sách Lê triều khiếu vịnh thi tập. Ký hiệu A.315, bản chép tay,có ghi như sau:Nguyễn Thái Bạt, người xã Bình Lãng, Huyện Cẩm Giàng, khoa Canh thìn niên hiệu Quang Thiệu thứ 5 ( 1520) đỗ chính thức 13 người; Nguyễn Thái Bạt đỗ thủ khoa, làm quan đến chức Hiệu Lý ở Hàn Lâm Viện, khi vua Lê Chiêu Tông bị đoạt ngôi chạy khỏi Kinh Thành, ông cùng thày dạy học là Nguyễn Văn Vận theo hầu phò giá. Sau này cùng với Nguyễn Văn Vận đều chết vì nghĩa cả. Có thơ khen rằng: Hổ bảng danh cao tảo trí thân,Hảo tương trung hiếu đáp quân thân,Sinh tam sự nhất chung vô tạcTu sát hoàng kim hoành đới nhân. Dịch Nghĩa Danh cao bảng hổ sớm thành công,Muốn đem trung hiếu đáp quân thân.Sinh tam sự nhất thật chẳng thẹn,Với quan đương nhiệm chẳng xấu theo. 4- LÊ MỘT SỐ CÂU ĐỒI ĐỀN THỜ TIẾT NGHĨA PHÚC THẦNTRUNG ĐẢNG THẦN NGUYỄN THÁI BẠT. 1-Đối Mạc sơn Hà song nhỡn bạchPhù Lê xã tắc nhất tâm đan. Dịch nghĩa: Mắt nhìn khinh bạc trước giang sơn nhà Mạc,Tấm lòng son sắt vẫn theo phò xã tắc nhà Lê 2 - Phù Lê xã tắc đồng tâm ứng,Tố ký sơn hà song nhỡn doanh Dịch nghĩa Xã tắc đồng tâm giúp nhà LêĐời sau non sông nhìn lại việc ấy bằng con mắt đẹp. 3- Trong đền câu đối: Lê binh bắc kính thần công hiểnLý nghiệp Nam tư vạn thế phù Dịch nghĩa: Tinh thần ủng hộ nhà Lê làm cho phương Bắc kính nể,Bảo vệ nước non là đạo lý muôn thủa của người nước Nam 4- Nhà Lê phong câu đối thờ cụ Tiết Nghĩa Đệ nhị giáp khoa Đăng Tuấn DựThập tam tiết nghĩa sỷ linh từ. Dịch nghĩa: 5 - Ngoài - Tiết nghĩa hậu lại thừa nhất mạch, Tinh thành tự khả đối tam trung . Dịch nghĩa: Hận vì mất nước, tuân theo truyền thống tiết nghĩa.Tự đem lòng, để sánh với đạo tam trung 5- SẮC BAN TẠI ĐỀN THỜ TIẾT NGHĨA PHÚC THẦN 5.1 SẮC BAN NIÊN HIỆU CẢNH HƯNG THỨ 28 (1767) Sắc ban cho vị Đại vương thi đỗ khoa Canh Thìn bậc đệ nhị giáp Tiến sĩ Xuất thân, giữ chức Hiệu lý ở Hàn Lâm Viện là Nguyễn Quí Công, Thụy Cương Trực. Văn đức hạnh, tiết khí khái, chính nghĩa minh đạo; giữ yên đất nước, bảo vệ nhân dân, Hùng tài vĩ lược; An dân Trí tuệ, Anh mẫn, Đặt đạt, Chính trực, Minh đạo, Lý tố Hàm trung, Tế thế, Hồng ân Đại vương. Đại Vương văn võ toàn tài, kinh luân đại dụng, công lao một đời, thế gia vọng tộc. Như đất trời ức niên trường cửu, âm thầm phù trợ quốc gia, để lại phúc lành mãi mãi, Ngày nay bao phong khen thưởng, ghi vào điển chương. Nay nhà vua mới tấm phong Vương vị, ở ngôi chính phủ; để tôn phù tông xã, củng cố hồng đồ; theo lễ nâng bậc. Đáng gia phong cho Đại Vương thêm hai chữ Mỹ tự, nên gia phong là: Tứ Canh Thìn bậc đệ nhị giáp Tiến sĩ Xuất thân, giữ chức Hiệu Lý ở Hàn Lâm Viện là Nguyễn Quí Công, Thụy Cương Trực. Văn đức hạnh, tiết khí khái, chính nghĩa minh đạo; giữ yên đất nước, bảo vệ nhân dân, Hùng tài, Vĩ lược; An dân Trí tuệ, Anh mẫn, Đặt đạt, Chính trực, Minh đạo, Lý tố, Hàm trung, Tế thế, Hồng ân, Đại lược, Hồng mô Đại vương. Nay ban sắcNgày 8 tháng 8 Niên hiệu Cảnh Hưng 28 ( 1767) 5.2 SẮC BAN NIÊN HIỆU CẢNH HƯNG THỨ 44 (1783) Sắc ban cho vị Đại vương thi đỗ khoa Canh Thìn bậc đệ nhị giáp Tiến sĩ Xuất thân, giữ chức Hiệu lý ở Hàn Lâm Viện là Nguyễn Quí Công, Thụy Cương Trực. Văn đức hạnh, tiết khí khái, chính nghĩa minh đạo; giữ yên đất nước, bảo vệ nhân dân, Hùng tài vĩ lược; An dân Trí tuệ, Anh mẫn, Đặt đạt, Chính trực, Minh đạo, Lý tố Hàm trung, Tế thế, Hồng ân, Đại lược, Hồng mô Đại vương. Đại Vương văn võ toàn tài, kinh luân đại dụng, công lao một đời, thế gia vọng tộc. Như đất trời ức niên trường cửu, âm thầm phù trợ quốc gia, để lại phúc lành mãi mãi, Ngày nay bao phong khen thưởng, ghi vào điển chương. Nay nhà vua mới tấm phong Vương vị, ở ngôi chính phủ; để tôn phù tông xã, củng cố hồng đồ; theo lễ nâng bậc. Đáng gia phong cho Đại Vương thêm hai chữ Mỹ tự, nên gia phong là: Tứ Canh Thìn bậc đệ nhị giáp Tiến sĩ Xuất thân, giữ chức Hiệu Lý ở Hàn Lâm Viện là Nguyễn Quí Công, Thụy Cương Trực. Văn đức hạnh, tiết khí khái, chính nghĩa minh đạo; giữ yên đất nước, bảo vệ nhân dân, Hùng tài, Vĩ lược; An dân Trí tuệ, Anh mẫn, Đặt đạt, Chính trực, Minh đạo, Lý tố, Hàm trung, Tế thế, Hồng ân, Đại lược, Hồng mô, Đôn tín, Anh nghị Đại vương. Nay ban sắcNgày 22 tháng 03 Niên hiệu Chiêu thống thứ 2 niên nguyên ( 1787) 5.3 SẮC BAN NIÊN HIỆU CHIÊU THỐNGTHỨ 2 (1787) Sắc ban cho vị Đại vương thi đỗ khoa Canh Thìn bậc đệ nhị giáp Tiến sĩ Xuất thân, giữ chức Hiệu Lý ở Hàn Lâm Viện là Nguyễn Quí Công, Thụy Cương Trực. Văn đức hạnh, tiết khí khái, chính nghĩa minh đạo; giữ yên đất nước, bảo vệ nhân dân, Hùng tài vĩ lược; An dân Trí tuệ, Anh mẫn, Đặt đạt, Chính trực, Minh đạo, Lý tố Hàm trung, Tế thế, Hồng ân, Đại lược, Hồng mô, Anh tín, Đôn nghị Đại vương. Đại Vương văn võ toàn tài, kinh luân đại dụng, công lao một đời, thế gia vọng tộc. Như đất trời ức niên trường cửu, âm thầm phù trợ quốc gia, để lại phúc lành mãi mãi, Ngày nay bao phong khen thưởng, ghi vào điển chương. Nay nhà vua mới tấm phong Vương vị, ở ngôi chính phủ; để tôn phù tông xã, củng cố hồng đồ; theo lễ nâng bậc. Đáng gia phong cho Đại Vương thêm hai chữ Mỹ tự, nên gia phong là: Tứ Canh Thìn bậc đệ nhị giáp Tiến sĩ Xuất thân, giữ chức Hiệu Lý ở Hàn Lâm Viện là Nguyễn Quí công, Thụy Cương Trực. Văn đức hạnh, tiết khí khái, chính nghĩa minh đạo; giữ yên đất nước, bảo vệ nhân dân, Hùng tài, Vĩ lược; An dân Trí tuệ, Anh mẫn, Đặt đạt, Chính trực, Minh đạo, Lý tố, Hàm trung, Tế thế, Hồng ân, Đại lược, Hồng mô, Đôn tín, Anh nghị, Hậu đức, Mậu công Đại vương. Nay ban sắcNgày 16 tháng 05 Niên hiệu Cảnh Hưng 44 ( 1783) 5.4 TỤC LỆ Xà BÌNH LÃNG ( BÌNH PHIÊN - CẨM GIÀNG) CÓ GHI : Phần tư văn hội lệ dĩ hạ Tiên chính Nguyễn Thái Bạt (? - 1526), (Bổ xung 1504 -1527) Thụy Cương Trực, thi đỗ Đệ Nhị giáp Tiến sĩ khoa Canh Thìn (1520) triều Lê làm quan đến chức Hiệu Lý ở Hàn Lâm Viện.Gia tặng : Tuấn Mại Cương trung, Đoan lượng, Quang ý, Dực bảo Trung Hưng Tiết Nghĩa Phúc Thần ( Được các Triều đại phong tặng 8 đạo sắc phong) 5.5 ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ BẢN KỶ THỰC LỤC 15 - NHÀ HẬU LÊ- NHÀ MẠC CÓ GHI : Canh Thìn, [Quang Thiệu] năm thứ 5 [1520] ,Mùa hạ, tháng 4, thi Hội các sĩ nhân trong nước, lấy đỗ bọn Nguyễn Bật 14 người (Bật người Nghệ An, [50a] thi Đình đỗ đồng tiến sĩ xuất thân). Đến khi thi Đình, vua thân hành ra đầu bài văn sách hỏi về nhân tài, cho Nguyễn Thái Bạt đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Thái Bạt người xã Bình Lăng, huyện Cẩm Giàng có tiết nghĩa), bọn Đặng Công Toản, Nguyễn Bật 13 người đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân. 5.6 KHÂM ĐỊNH VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC -CHÍNH BIÊN QUYỂN 27 CÓ GHIẤt Dậu, năm thứ 10 (1525). (Hoàng đệ Xuân, năm Thống Nguyên thứ 4 - Minh, năm Gia Tĩnh thứ 4 ).Tháng 10- 1525, mùa đông. Đăng Dung đánh bại Trịnh Tuy, bèn cướp lấy nhà vua, đem về phường Đông Hà.Đăng Dung tự làm đô tướng, thống suất các doanh quân thủy quân bộ vào đánh Trịnh Tuy ở châu Lang Chánh thuộc Thanh Hoa : đánh hãm được hết các quận huyện ở Tây Kinh . Sau đó, Trịnh Tuy chết. Đăng Dung bèn cướp lấy nhà vua ở Lang Chánh, đem về để ở tại phường Đông Hà.Lời chua - Đông Hà: Tên phường, thuộc huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, Hà Nội.Tháng 12. Đăng Dung giết Phúc lương hầu Hà Phi Chuẩn.Phi Chuẩn đóng quân ở Bắc Giang. Nghe tin Đăng Dung đã bức hiếp đem nhà vua về rồi, quân của Phi Chuẩn đều giải tán. Phi Chuẩn bị môn đồ bắt, đem đến kinh đô. Đăng Dung sai thắt cổ giết chết Phi Chuẩn.Bấy giờ hàn lâm hiệu lý Nguyễn Thái Bạt bị Đăng Dung cưỡng ép vời đến, ông giả vờ thanh manh, được đến gần, nhân đó ông nhổ vào mặt Đăng Dung và mắng chửi ầm ỹ. Lễ bộ thượng thư Lê Tuấn Mậu bị Đăng Dung cưỡng ép vào chầu, ông xu xu hòn đá trong ống tay áo, ném Đăng Dung, không trúng. Cả hai đều bị Đăng Dung giết chết.Lại bộ thượng thư Đàm Thận Huy, Kinh Bắc Tham chính sứ Nguyễn Duy Tường, Hiến sát sứ Nguyễn Tự Cường và Bình hồ bá Nghiêm Bá Ký đều thống suất hương binh chống đánh với Đăng Dung; không thắng được đều tự tử chết.Đô ngự sử Lai Kim Bảng lánh về quê làng, sau bị Đăng Dung cưỡng ép vời gọi. Khi qua giữa dòng sông Nhị, ông mũ áo chỉnh tề, bái vọng về Lam Sơn , lớn tiếng mắng chửi Đăng Dung, rồi gieo mình xuống sông chết.Phó đô ngự sử Nguyễn Hữu Nghiêm và Lễ Bộ tả thị lang Lê Vô Cương bị bắt, không chịu khuất phục, đều bị Đăng Dung giết chết.Nguyễn Thiệu Tri, trước kia, làm Hộ Bộ thượng thư, đã trí sĩ. Nay được tin con là Nguyên Sùng nhận lãnh ngụy chứccủa Mạc Đăng Dung, ông bèn gọi em của Nguyên Sùng đến, trối trăng mọi việc sau khi mình chết: không cho Nguyên Sùng được làm con. Đêm đến, ông hướng về Lam Sơn bái vọng, rồi tự vẫn chết.Bây giờ có đến hơn mười người tử tiết. Riêng Lễ Bộ thượng thư Phạm Khiêm Bính trước tiên đi yết kiến, bị Đăng Dung truất xuống làm Hộ Bộ hữu thị lang. Thái bộc tự khanh Nguyễn Mậu theo nhà vua đi Thanh Hoa, kịp khi nhà vua bị Đăng Dung bức hiếp đem về. Nguyễn Mậu về trước để đợi tội, bị Đăng Dung truất xuống làm Tuyên Quang thừa chính sứ. Tháng 6. -Năm 1527 Đăng Dung tự xưng là vua.Đăng Dung từ Cổ Trai vào kinh đô, ép Xuân nhường ngôi cho mình.Bấy giờ ban thứ trăm quan để yên chỗ, nhưng chưa có tờ chiếu nhường ngôi. Đăng Dung hạ lệnh cho Lại bộ thượng thư Trương Phu Duyệt đứng thảo. Nhưng Phu Duyệt quắt mắt, mắng Đăng Dung: "Thế nghĩa là gì! ".Đăng Dung bèn sai Đông Các đại học sĩ Nguyễn Văn Thái phải làm cho xong tờ chiếu. Đăng Dung bèn sai tuyên đọc lời chiếu rồi xưng hoàng đế, đổi năm này (Đinh Hợi, 1527 ) làm năm Minh Đức thứ 1.Đăng Dung giết hoàng đệ Xuân và hoàng thái hậu Trịnh Thị.Đăng Dung phế truất Xuân xuống làm Cung Vương, giam luôn với hoàng thái hậu Trịnh Thị ở nội cung phía tây, vài tháng sau ép phải tự tử.Đăng Dung vào đóng tại thành Thăng Long, lập miếu, dựng điện, truy tôn tổ khảo nhà mình. -Bấy giờ trong kinh đô và ngoài các lộ thẩy đều hoang mang. Đăng Dung sợ lòng người tưởng nhớ nhà Lê cũ, sinh ra biến cố, nên phàm việc đều noi theo chế độ triều Lê, vỗ về một cách giả tạo để trấn áp lòng người; nào sửa chữa đền miếu nhà Lê cũ, cúng tế theo tuần tiết bốn mùa, nào truy phong thêm cho các bầy tôi tiết nghĩa nhà Lê như bọn Vũ Duệ và Đàm Thận Huy... Đăng Dung lại cầu tìm con cháu các công thần, bề ngoài tỏ ý lục dụng để vỗ về họ.Nhưng con cháu các nhà công thần ấy hoặc trốn tránh vào rừng núi, hoặc giấu tên ẩn họ, không ra làm quan, hoặc tụ họp làm giặc cướp, hoặc trốn đi ngoại quốc để lánh nạn.Lời chua - Nguyễn Thế Ân: Người Mộ Trạch huyện Đường An . 5.7- KHÂM ĐỊNH VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC -CHÍNH BIÊN QUYỂN 33 CÓ GHI Bính Ngọ, năm thứ 4 (1666). (Thanh, năm Khang Hi thứ 5).Tháng 11, mùa đông năm 1666. Tuyên dương 13 người bầy tôi tử tiết là bọn Vũ Duệ.Trước kia, họ Mạc tiếm quyền giết vua, Chiêu Tông nhà Lê phải bỏ kinh thành chạy ra ngoài, bấy giờ bầy tôi nhiều người tử tiết. Nay tham tụng Phạm Công Trứ kiến nghị xin tuyên dương những người ấy, được Vua Lê Huyền Tông sắc phong, lựa chọn bổ dụng con cháu của họ.Lúc ấy những người sau này được sắc phong: Tổng só 13 người*Sắc phong thượng đẳng thần: 8 người Vũ Duệ, Ngô Hoán, Nguyễn Mẫn Đốc, Nguyễn Thiệu Tri, Đàm Thận Huy, Lê Tuấn Mậu, Nguyễn Duy Tường và Nguyễn Tự Cường;*Sắc phong trung đẳng thần: 5 người Lê Vô Cương, Nguyễn Hữu Nghiêm, Lại Kim Bảng, Nguyễn Thái Bạt và Nghiêm Bá Kỳ.Những người được phong làm thần, đều cho dựng từ đường ở trong làng theo thời tiết tế tự như thể lệ tế bách thần. Con cháu của họ thì lựa chọn bổ dụng những người có đức hạnh tốt; còn những người khác thì điều trừ lao dịch cho nhà họ.Lời chua - Sự trạng các bầy tôi tự tiết: Xem Lê Chiêu Tông, năm Quang Thiệu thứ 7 và thứ 10 (Chb. XXVII, 8, 11, 12). 5.8- SÁCH THIÊN NAM BẢO LỤC DIỄN CAĐỀ CAO KHÍ TIẾT TRUNG THẦN TIẾT NGHĨA: " Vũ Duệ bức mà Ngô Hoán giận, Duy Thường than mà Mậu Tuất bi. Tiết: Kim Bảng, Nghĩa : Thận Huy, Trung Can: Thái Bạt, hùng uy Tự cường. Người phỉ mặt, người mang đá ném, Người gieo sông, người nếm thuốc phê. Áo bào mũ miện chỉnh tề, Cùng đều tư tưởng lạy về non Lam." 5.9- SÁCH TRẠNG NGUYÊN TIẾN SĨ HƯƠNG CỐNG VIỆT NAM CÓ GHI Trang 421 : Nguyễn Thái Bạt ( ? - 1526) Bổ xung (1504 -1527)Người xã Bình Lãng, huyện Cẩm Giàng, Nay thuộc thôn Bình Phiên- xã Ngọc Liên- Huyện Cẩm Giàng- Hải Dương.Đỗ Hoàng Giáp khoa thi Canh thìn niên hiệu Quang Thiệu thứ 5 (1520) đời Lê Chiêu Tông. Làm quan đến Hàn Lâm, tháng 1-1526, Mạc Đăng Dung bắt vua Lê Chiêu Tông đưa từ Thanh Hóa ra Thăng Long, Nguyễn Thái Bạt giả vờ làm người bệnh thong manh ( mắt kém) để được đến gần, nhân đó ông nhổ nước bọt ( Nước bả trầu) và chửi mắng Mạc Đăng Dung, bị giết. Khoa thi này (1520) thi Hội lấy trúng cách 13 người, nhưng có người cao giác Nguyễn Đốc Bùi ( xã An tráng huyện Lang Tài, huyện Lương Tài ngày nay) và Phạm Quang Tá ( Xã Bình Lãng huyện Cẩm Giàng) giấu việc tang để đi thi nên bị truất không dự thi Đình. 5.10- SÁCH TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ ĐẤT THANG MỘCTÁC GIẢ HOÀI ANH ... Sáng ngày hôm sau, khi các quan đã đứng vào ban chầu, ngai vua vẫn còn trống. Phe đảng của Đăng Dung là Nguyễn Quốc Hiến tiến ra nói:Nay hoàng thượng đã có ý nhường ngôi cho Thái sư An hưng vương, nhưng chưa có tờ chiếu nhường ngôi, vậy xin các quan cử cho một người thảo chiếu giùm:Nguyễn Thì Ung nói:- Xin nhờ quan lại Bộ thượng thư họ Trương thảo giùm.Vừa nghe xong, Trương Phu Duyệt trợn mắt mắng:- Hoàng thượng không ra coi chầu, chưa biết ý người thế nào, mà các ông lại bảo tôi thảo chiếu, thế nghĩa là gì ?Trần Phi nói:Nêu vậy xin nhờ quan đông các đại học sĩ Đạo nguyên bá họ Nguyễn thảo giùm.Nguyễn văn Thái vâng lời, tiến đến trước long án, cầm bút thảo, giây lát xong, đưa trình các quan. Các quan bằng lòng, giao cho quan Hàn lầm viện thị độc tuyên đọc:....Chiếu đọc dứt, bọn quan lại bè đảng với họ Mạc đều tung hô:-Tân quân vạn tuế, vạn vạn tuế.Mạc Quốc Trinh nói:Xin mời tân quân lên bảo tọa.( Hôm đó là ngày 15 - 6 -1527)Bọn phe đảng họ Mạc mặc long bào, đội mũ miện cho Đăng Dung rồi dìu y lên ngai vàng. Nguyễn Quốc Hiến dâng ngọc tỉ. Các quan lục đục vào lạy mừng.Mạc Đình Khoa nói:- Các quan đều tề tựu đủ, chỉ có các vị Vũ Duệ, Nghiêm Bá Kỷ, Nguyễn Xí, Đàm Thận Huy, Nguyễn Hữu Nghiêm, Nguyễn Văn Vận, Nguyễn Thái Bạt, Lê Tuất Mậu, Ngô Hoán, Trần Bảo Hy, Đỗ Tế, vắng mặt, xin bệ hạ cho trung sứ tuyên triệu tới trước bệ rồng. Mạc Đăng Dung chuẩn tấu, phát ra mấy đạo lệnh chỉ tuyên triệu những người vắng mặt, lát sau, trung sứ về quỳ tâu: - Muôn tâu, Vũ Duệ, Nghiêm Bá Kỷ, Nguyễn Xí, Đàm Thận Huy, Nguyễn Hữu Nghiêm, can vào án phản nghịch của Hà Phi Chuẩn, sợ bỏ trốn rồi ạ.Mạc Đăng Dung gầm lên:- Cho quân đi chóc nã chúng về đây để ta chừng trị.Mạc Đình Khoa vâng lệnh đi ngay. Trung sứ lại tâu:- Tâu bệ hạ, Trần Bảo Hy, cáo từ không chịu đến, còn Nguyễn Văn Vận, Nguyễn Thái Bạt, Lê Tuất Mậu, Ngô Hoán, Đỗ Tế đã đến chầu.Đăng Dung dõng dạc:- Cho từng viên một vào đây. Nguyễn Văn Vận từ ngoài tiến đến trước ngai vàng, khi tiến gần Đăng Dung, ông xuất kỳ bất ý cầm hốt đánh thẳng vào mặt y. Đăng Dung vốn giỏi võ, chỉ nghe tiếng gió đã hụt tránh, nên cái hốt đánh không trúng mặt y. Túc vệ phía sau điện vội vàng ra bắt Nguyễn Văn Vận lôi tuột đi.Mạc Quốc Trinh tiến ra nói:- Các quan vào lạy mừng, phải bỏ hốt lại: Túc vệ khám xét từng viên quan mới tới, xem có mang theo hốt hay binh khí không, nếu có thì tịch thu giữ lại. Lê Tuất Mậu tiến vào, khi tới gần Đăng Dung, ông ném hòn đá giấu sẵn trong tay áo vào mặt y. Viên đá sượt qua mặt Đăng Dung làm xây xát da mặt. Túc Vệ vội chạy ra lôi Lê Tuất Mậu đi. Đến lượt Nguyễn Thái Bạt, túc vệ khám xét trong người ông kỹ lưỡng thấy không có vật gì khả nghi mới dám cho vào. Nguyễn Thái Bạt khom lưng tiến tới trước mặt Đăng Dung như để lạy mừng. Bất đồ ông nhổ nước bọt ( Nước bã trầu không) thẳng vào mặt Đăng Dung, Đăng Dung tránh không kịp, nước bọt trắng xóa bộ mặt gian hùng. Rồi không để cho bọn túc vệ đến bắt, ông đập đầu xuống thềm điện tử tiết.Sự việc xảy ra nhanh quá khiến cho các quan đều bàng hoàng, Đăng Dung hốt hoảng vội ra lệnh bãi chầu, Buổi chầu tan, nhốn nháo như một cái chợ vỡ. Bị giam trong ngục, Nguyễn Văn Vận, Lê Tuất Mậu vẫn luôn miệng chửi mắng Đăng Dung nên bị đưa đi hành quyết. Khi bị giải ra pháp trường, hai ông vẫn cứ chửi không ngớt, bọn đao phủ phải cắt lưỡi hai ông trước khi bị chém đầu, để dân chúng khỏi nghe thấy những lời chửi rủa kẻ phản bội. 5.11- KHÍ TIẾT MỘT SỐ NHÀ NHO THỜI LÊ - MẠC: (Theo tin tức của Bee)Thời Lê – Mạc nhiều nhà nho đã thể hiện tính trung quân, hiếu đức, để lại cho đời sau những trang sử tráng liệt." Ta thà làm ma nhà Lê, không thèm làm quan nhà Ngụy Mạc" Hoàng giáp Nguyễn Thái Bạt người xã Bình Lãng, huyện Cẩm Giàng, nay thuộc thôn Thu Lãng ( Bình Phiên), xã Ngọc Liên, huyện Cẩm Giàng, Hải Dương, đỗ Hoàng giáp khoa Canh Thìn năm 1520 đời vua Lê Chiêu Tông, làm quan đến chức Hàn Lâm Viện Hiệu Lý.Khi Lê Chiêu Tông bị bắt ở Thanh Hóa ngày 17 tháng Giêng năm 1526 đưa về Thăng Long, Hoàng giáp Nguyễn Thái Bạt bị ép ra làm quan để phò triều Mạc. Với tư tưởng “Trung thần bất phụng nhị quân” (người trung thần không thờ 2 vua), Nguyễn Thái Bạt nhất định không chịu phục tùng.Mạc Đăng Dung nhiều lần cố ép, biết không thể từ chối mãi được, Nguyễn Thái Bạt giả vờ thong manh, đi loạng choạng để được đưa đến gần rồi thản nhiên chỉ vào mặt Mạc Đăng Dung mắng chửi: “Mày là đồ bất trung, nghịch tặc”.Ông còn dõng dạc tuyên bố: “Ta thà làm ma nhà Lê chứ không thèm làm quan nhà Ngụy Mạc”. Ông bị giết, triều Lê Trung hưng phong làm Trung Đẳng Thần. Năm 1666, vua Lê Thần Tông xếp vào hạng Trung Thần Tiết Nghĩa, phong là Phúc Thần. Ghi ngoàiDịch giả Hoàng Xuân Hãn đã từng nói: “Ngày nay cũng như ngày xưa, dân ta đã tỏ cái khí tiết bất khuất đối với mọi lý tưởng vì nước, vì dân, vì tinh thần, vì tư tưởng. Sự vào trầu nhổ mặt, của Nguyễn Thái Bạt thật ra là việc mọn, nhưng nó tỏ tinh thần dân ta đời đời không chịu khuất phục, không chịu mất dân tộc tính. Vậy đó là một giai thoại nên ghi và đáng được nhắc lại...”. 5-12 THEO SÁCH NHÂN VẬT LỊCH SỬ HẢI DƯƠNG TRANG 146 VIÉT: Nguyễn Thái Bạt là Văn thần đời Lê Chiêu Tông, quê tại Bình Lãng, huyện Cẩm Giàng - Hải Dương. (Nay là thôn Bình Phiên - xã Ngọc Liên -Huyện Cẩm Giàng - Hải Dương)Thửa nhỏ ông vốn là người thông minh hiếu học. Ông đỗ đệ nhị giáp Tiến Sĩ xuất thân ( Hoàng Giáp) khoa thi Canh Thìn, niên hiệu Quang Thiệu 5 ( 1520) làm quan tới chức Hàn Lâm.Khi nhà Mạc thành lập, ông bỏ quan lui về quê, Mạc Đăng Dung tuyên triệu ông để bổ dụng. Ông vào triều chầu, làm ra vẻ thong manh lờ lệt ( Mắt kém). Ông xin lại gần trình việc quan trọng, rồi phun nước bọt vào mặt vua Mạc, nên bị giết chết tại chố.Nhà Lê Trung Hưng cho lập miếu thờ ông và Lại Kim Bảng, phong làm Phúc Thần. Các đời sau đều xưng tặng là bậc Tiết NghĩaQuật Đình Ưng Ân đề vịnh : (Khen rằng) Quí chẳng ham Hàn Lâm Thái BạtThấy trào Lê họ Mạc tiếm ngôi Chảng chìu mắt sáng giả đui Đăng Dung kêu hỏi mấy hồi mới vô Xin lại gần thỉnh phô mấy chuyện Mặt Đăng Dung nước miếng nhổ qua Quyết tình hết với vua ta Xã dân phụng sự gần xa kính vì 5-13 T HEO BEE ĐIỀU CHƯA BIẾT VỀ CÁC ÔNG VUACàng đi sâu vào sử cũ nước nhà, chúng ta càng khám phá thêm những điều kỳ thú về các vị vua, từ người ít tiếng tăm cho đến những người danh tiếng lẫy lừng mà cuộc đời tưởng chừng như đã rõ ràng nhiều chuyện .MẠC THÁI TỔ (MẠC ĐĂNG DUNG) BỊ NHỔ VÀO MẶTMạc Thái Tổ, tức Mạc Đăng Dung, vốn xuất thân làm nghề đánh cá, vì có sức khỏe lại giỏi đánh vật nên được vào làm lính hầu cận cho vua, sau dần lên đến chức đại thần lớn trong triều đình nhà Lê. Tháng 6 năm Đinh Hợi (1527), Mạc Đăng Dung giết vua, cướp ngôi của nhà Lê lập ra nhà Mạc.Nhiều quan lại trung thành với nhà Lê, người thì nổi binh chống Mạc, người thì tự vẫn để tỏ khí tiết; người thì ở ẩn tỏ thái độ bất hợp tác. Trong số đó có Nguyễn Thái Bạt, đỗ tiến sĩ khoa Canh Thìn (1520), làm quan đến chức Hiệu lý Hàn lâm viện. Ông bị Mạc Đăng Dung bắt ép phải vào triều kiến. Tức giận kẻ cướp ngôi, Nguyễn Thái Bạt giả vờ mắt kém xin đến gần để được nhìn vua mới rõ hơn, nhân thế ông nhổ nước bọt vào mặt Mạc Đăng Dung rồi lớn tiếng chửi mắng đến khi bị giết; đời sau có nhiều tác phẩm ca ngợi nghĩa khí của ông.5-14. Nhà Văn LƯU VĂN KHUÊ - Hội viên Hội Nhà văn Hải Phòng. Viết Tiểu thuyết Mạc Đăng Dung Có đoạn viết ...-… , các vị như Đàm Thận Huy, Nguyễn Nghiêm, Vũ Duệ lại bỏ trẫm, không muốn cộng tác, trẫm thật lấy làm giận và tiếc lắm! Chẳng đâu xa, ngay giờ đây bên trẫm không có Đô ngự sử Nguyễn Thái Bạt, vậy lấy ai bàn chính sự, can gián trẫm những khi thiếu sáng suốt? Không có Hộ bộ Thượng thư Nguyễn Thiệu Tri, vậy lấy ai đủ tài coi việc ruộng đất, thuế khoá, lương tiền cho quan quân? Không có Lễ bộ Thượng thư Đàm Thận Huy, vậy lấy ai coi việc lễ nghi, học hành, thi cử? Các quan cùng tâu: " Chúng thần xin hết sức để thay những vị ấy”. |