GIA

PHẢ

TỘC

NGUYỄN
THÁI
BẠT
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
VIẾT VỀ GIA SỬ CỦA DÒNG HỌ
PHẦN THỨ I - LỜI TỰA NGỌC PHẢ

-Dòng Họ Nguyễn Thái Bạt chúng ta được thừa hưởng di sản, là một số quyển gia phả viết bằng chữ Nho( Chữ Hán, chữ Nôm), tấm bia công đức, các Thần Tích, Thần Sắc, mà các đời vua sắc phong cho Đức Thủy Tổ Nguyễn Thái Bạt (阮 泰 拔), thụy Cương Trực. Đây chính là các Gia Bảo vô cùng quý giá của cả dòng họ, nhờ đó mà thế hệ sau, biết được công đức sự nghiệp, của Thủy Tộc và các thế hệ tiếp theo.
- Đành rằng hàng ngày mỗi người đều chịu nhiều áp lực từ cuộc sống, vất vả, tất bật với sự phát triển nhộn nhịp từng ngày của xã hội, để nuôi sống gia đình và bản thân là việc hàng đầu. Nhưng có thấy nỗi day dứt của những người có tâm huyết muốn truyền cho con cháu mình biết đời cha mình do ai sinh ra, từ đâu đến, Tổ Tiên công đức ra sao. Chẳng may gia phả bị mất những người ở phương trời xa, không được cha ông truyền cho biết gốc gác của mình ở đâu, họ hàng là ai, khi đó mới thấy ý nghĩ đầy đủ của hai chữ Gia Phả.
- Nếu nói sử ký là gốc của dân tộc, thì Gia phả là gốc của một dòng họ, như giọt nước rất quý với những người sống trên sa mạc, còn đối với người sống ngay ven sông, dễ gì mỗi lần “Uống nước” Lại phải “Nhớ nguồn”, gia phả chính là sự gửi gắm tâm tư tình cảm của Tổ tiên đời trước, truyền lại cho thế hệ mai sau. Đất nước có sử ký, dòng họ có Phả ký. Trong cuốn gia phả ghi bằng chữ Hán mà tổ tiên để lại có ghi trong kinh thi có câu thơ rằng “ Quyết sơ sinh dân ngôn thủy dã”, có nghĩa là : Người sinh ra đầu tiên gọi là thủy tổ.
“Gia phả của Tổ Tông từ thửa sơ khai lưu truyền đời đời không thay đổi, nó ghi lại sự phát triển, công đức của nhiều đời. Nó là vật quý của cổ nhân để lại, Nó như gỗ lớn không mục, như nước chảy không ngừng”.
-Gia phả ghi lại thứ tự các đời theo hệ thống huyết mạch mỗi khi nhìn vào đó ta thấy tổ tiên hiển hiện ra trước mắt mình. Dòng họ ta được hưởng ân đức, sự nghiệp của Tổ Tông vạn đời ghi trong quyển gia phả này, vạn đời ở đất này.
-Là dòng họ thi thư trâm anh thế phiệt, dòng họ nho học lâu đời, sự nghiệp công đức dòng họ gắn liền với vận mệnh dân tộc, nước thịnh thì họ thịnh, nước suy thì họ suy, việc lập gia phả là lẽ thường tình, để từ đó các thế hệ nối tiếp nhau, khi đọc Phả ký hiểu được rằng nguồn gốc mình từ đâu, mình thuộc chi nào ngành nào, đời nào, biết người mình đáng tôn, biết thân người đáng thân, trong họ ngày càng gắn bó khăng khít hơn. Gia phả dựng lên chúng ta kính tôn Đức Thủy Tộc Nguyễn Thái Bạt, trọng nơi gốc dễ, như sông có nguồn, núi có dãy, nghĩ công lao của thủy tổ mà dốc lòng kính hiếu. Gìn giữ luân lý họ hàng, trong họ không có thói kiêu ngạo, không thói hư tật xấu, phấn đấu có nhiều người tài đức, vui vẻ đầm ấm sống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, giữ lấy nếp nhà. Hiếu thảo với cha mẹ, thuận hòa với anh em, thói nhà tôn trọng con trưởng và hội đồng gia tộc, yêu quí trẻ thơ dạy dỗ động viên các thế hệ sau, tích cực học tập trau dồi đạo đức, làm gương một dòng họ nhân ái đoàn kết, Ăn quả nhớ ơn người trồng cây, nghĩ đến tình họ hàng như cây cùng một gốc, một lòng một dạ yêu thương, che chở dìu dắt, giúp đỡ lẫn nhau, giọt máu đào hơn ao nước lã.
Công lao sự nghiệp của Đức Thủy Tộc Nguyễn Thái Bạt, thể hiện rõ trong sắc phong niên hiệu Chiêu Thống (23-3-1787) như sau:

SẮC PHONG
Sắc ban cho vị Đại Vương thi đỗ khoa Canh Thìn bậc Đệ nhị giáp Tiến Sĩ Xuất thân, giữ chức Hiệu Lý ở Hàn Lâm Viện là Nguyễn Quí công, Thụy Cương Trực. Văn đức hạnh, tiết khí khái, Chính nghĩa minh đạo; Giữ yên đất nước, bảo vệ nhân dân, Hùng tài, Vĩ lược; An dân, Trí tuệ, Anh mẫn, Đặc đạt, Chính trực, Minh đạo, Lý tố, Hàm trung, Tế thế, Hồng ân, Đại lược, Hồng mô, Đôn tín, Anh nghị Đại Vương.
Đại Vương văn võ toàn tài, kinh luân đại dụng; công lao một đời, thế gia vọng tộc. Như đất trời ức niên trường cửu, âm thầm phù trợ quốc gia, để lại phúc lành mãi mãi. Ngày nay bao phong khen thưởng, ghi vào điển chương. Vì có công lao âm phù Hoàng gia, phục hồi chính sự; theo lễ đáng được nâng bậc. Nên gia phong là :
Tứ Canh Thìn khoa Đệ nhị giáp Tiến Sĩ Xuất thân Hàn Lâm Viện Hiệu lý Nguyễn Quí Công, Thụy Cương Trực. Văn đức hạnh, Tiết khí khái, Chính nghĩa, Minh đạo, Khang quốc, Bảo dân, Hùng tài, Vĩ lược, An dân, Trí tuệ, Anh mẫn, Đặc đạt, Chính trực, Minh đạo, Lý tố Hàm trung, Tế thế, Hồng ân, Đại lược, Hồng mô, Đôn tín, Anh nghị, Hậu đức, Mậu công Đại Vương.
Nay ban sắc.
Ngày 22 tháng 3 niên hiệu Chiêu Thống thứ 2 Nguyên niên(1787).

-Đức Thủy Tộc Nguyễn Thái Bạt mãi mãi là tấm gương sáng cho các thế hệ noi theo học tập, về sự hy sinh cao cả, lòng nhân ái bao dung đôn hậu, xứng danh: Một dòng Họ tích thiện, tích đức, tích trí, thật không hổ thẹn với non sông đất nước, Đức thủy tộc là kết tinh trí tuệ lớn của dòng tộc ta, là người : Trung - Nghĩa - Lễ- Trí - Tín.
-Mỗi người trong dòng họ chúng ta, có quyền tự hào được sinh ra trong dòng họ thi thư trâm anh thế phiệt vinh danh ngàn đời.
- Dòng sau mấy trăm năm ly tán, do lịch sử để lại, nay mới tìm lại được nhau, do vậy việc lập lại Ngọc Phả dòng họ Nguyễn Thái Bạt, là việc làm rất quan trọng, rất cần thiết, lưu lại cho thế hệ mai sau, biết được lịch sử truyền thống dòng họ, từ đó học tập công tác, phấn đấu, theo tấm gương các bậc tiền nhân đi trước, làm rạng danh, bản thân gia đình và dòng họ.
-Quả hạt tiêu dù bé nhỏ, nhưng nhiều quả góp lại sẽ thành cân, thành yến, thành tạ, thành tấn, dòng họ ta đông đúc như này nay, nhờ ân đức Tổ tiên nhiều đời tích lũy mà có được, đây chẳng phải là Gia Bảo vô cùng quý giá đó sao.
Người đời sau gìn giữ cẩn thận, nhân ra nhiều bản lưu truyền cho mai sau

HỘI ĐỒNG GIA TỘC HỌ NGUYỄN THÁI BẠT
ỦY QUYỀN CẨN SOẠN
Mùa thu ngày Bính Dần (06-08) Canh Dần 13 - 09 -2010
(Ngày Hoàng Đạo – Thiên Đức – Thiên Giải)
Hậu duệ đời 17 : Nguyễn Văn Hùng- Chi tộc Tứ Kỳ - Bình Giang- Hải Dương


PHẦN THỨ II LỜI DẪN NGỌC PHẢ HỌ NGUYỄN THÁI BẠT TOÀN QUỐC
Kính gửi : Các thành viên dòng Họ Nguyễn Thái Bạt.

A- HÀNH TRÌNH VẤN TỔ TÌM TÔNG ĐỨC THỦY TỔ NGUYỄN THÁI BẠT.
-Phần dẫn phả xin được bắt đầu từ 30 - 04 - 2009 đoàn Nguyễn Tộc Bình Giang gồm 4 người, theo lời các cụ Tổ tiên dặn lại, mỗi lần đi thanh minh tảo mộ cụ Nguyễn Văn Huề Húy Nguyễn Văn Cộ. Vì “ Nạn Quan triều” cụ dẫn người con thứ chạy sang Đan Ấp nay là ( Thôn Đan Loan – Xã Nhân Quyền – Huyện Bình Giang – Tỉnh Hải Dương) để lập nghiệp. Cụ để lại con trưởng ở quê để gìn giữ dòng Họ.
-Cụ Nguyễn Văn Cộ là người thôn Chợ Cờ - Xã Tứ Kỳ - Phủ Ninh Giang -Tỉnh Hải Dương.(Theo gia phả ghi lại)
-Nay là Thôn Tứ Kỳ Thượng – Xã Ngọc Kỳ - Huyện Tứ Kỳ - Tỉnh Hải Dương.
Cụ Thủy Tổ là Nguyễn Thái Bạt, trong họ tương truyền rằng cụ Nguyễn Thái Bạt, là một vị quan trong triều đình, có xảy ra biến cố “Nạn Quan triều” cụ thể thế nào? Không một ai được rõ ?
-Việc chưa tìm thấy nguồn gốc cụ khởi tổ Nguyễn Văn Cộ, chi Nguyễn Tộc Bình Giang – Hải Dương, luôn là nỗi ray rứt của cả Nguyễn tộc. Sau nhiều lần trao đổi bàn bạc trong họ, một hôm Nguyễn Văn Hùng – 49 tuổi, con trai ông Nguyễn Văn Đề: ông Đề 82 tuổi, chuẩn bị nghỉ hưu có nói, trước lúc nghỉ hưu muốn đi tìm dòng họ bên Thôn Chợ Cờ - Huyện Tứ Kỳ - Hải Dương (Theo gia phả để lại) xem tình hình cụ thể thế nào, được mọi người trong họ ủng hộ.
-Đoàn Nguyễn Tộc – Thôn Sồi Cầu – Xã Thái Học – Huyện Bình Giang – Tỉnh Hải Dương, sang Thôn Chợ Cờ - Huyện Từ Kỳ - Tỉnh Hải Dương ( Nay là Thôn Tứ Kỳ Thượng – Xã Ngọc Kỳ - Huyện Tứ Kỳ - Tỉnh Hải Dương), vấn Tổ tìm Tông, đoàn gồm 4 người:
1-Bà Trần Thị Tý – 82 tuổi vợ ông Đề
2-Ông Nguyễn Văn Bình – 73 tuổi – Em trai út ông Đề
3-Nguyễn Văn Hùng – 49 tuổi con trai ông Đề
4-Hoàng Bá Phương – 41 tuổi con nuôi ông Đề.
(Ông Nguyễn Văn Đề là con trưởng cao tuổi nhất dòng họ, đang sống trên đất tổ tiên nhiều đời để lại, trông coi thờ cúng hương khói dòng tộc)
- Đoàn Bình Giang chuẩn bị bản đồ địa hình 1 : 200000, tìm đường sang thôn Chợ Cờ - Tứ Kỳ- Hải Dương. Trước lúc đi ông Đề có dặn năm ông 12 tuổi tức 1939 ông Đề còn nhỏ, thường gia đình có công việc vẫn thấy đoàn bên Tứ Kỳ sang bên Bình Giang tham dự.
- Đúng 7h 15 phút xuất phát từ nhà ông Đề, đi theo đập Bá Thủy, đến thị trấn Gia Lộc, - sang Gia Khánh – Qua Cầu Cờ ( Trước kia là Đò Cờ) hỏi thăm vào thôn Chợ Cờ. Ông Bình có kinh nghiệm hỏi thăm vào nhà Cụ cao niên trong làng còn minh mẫn. Đến thôn Chợ Cờ, đoàn gặp một bà lão chăn trâu bên đường, hỏi thăm Cụ cao niên nhất trong làng còn minh mẫn, bà lão nói : Bây giờ trong làng Cụ cao niêm nhất còn minh mẫn chỉ có cụ Phạm Văn Tăng, năm nay 92 tuổi, các ông thử vào hỏi xem sao, bà lão chỉ đường vào nhà cụ Phạm Văn Tăng. Vào Nhà cụ Tăng ông Bình giới thiệu họ Nguyễn bên Bình Giang, sang bên này tìm Họ: Chẳng hiểu sao cụ Tăng kể chuyện nay về dòng Họ Nguyễn Thái Bạt cụ nói: Theo lời ông của cụ kể lại trước kia nhà Nguyễn Thái Bạt có hai ngôi mộ đặt ở khu Giếng Mực ngày nay, trong lúc Nguyễn Thái Bạt, bị ép vời vào cung gần ngày Thanh Minh tháng 3. Dân làng họp bàn chuyển hai ngôi mộ của nhà Nguyễn Thái Bạt, để đào Giếng Mực, sau đó họ chuyển hai ngôi mộ vào ban đêm đi đâu không ai biết, Nguyễn Thái Bạt bị ép vời vào chầu, mất chức quan, đồng thời 6 người trong họ đi theo, các ông ra mà xem ở khu Giếng Mực ấy. Ông Bình hỏi tiếp cụ Tăng, thế con cháu cụ Nguyễn Thái Bạt còn ai không? Cụ Tăng nói “Không còn ai thì phải” đoàn Bình Giang cũng bi quan, ông Bình hỏi tiếp cụ Tăng làng ta có bao nhiêu họ Nguyễn ? Cụ Tăng nói: có Nguyễn Thành, Nguyễn Vóc, Nguyễn Quý, đoàn Bình Giang cảm ơn cụ biếu chè, mừng tiền chúc thọ cụ, đi tìm họ Nguyễn trong làng. Đoàn Bình Giang đi ra đến cổng Chùa, quay lại gặp một phụ nữ trung niên, ông Bình hỏi thăm, chị nói về làm dâu ở làng nên không rõ, nhưng chị biết nhà trưởng tộc họ Nguyễn, vị trí đó cách nhà anh Thành trưởng tộc 20m. Ông Bình cùng cháu Hùng, vào xem thế nào ? Vì không biết có đúng không ? Nên Bà Đề và Phương trông xe ngoài đường. Anh Thành mời hai chú cháu vào trong nhà uống nước, ông Bình giới thiệu Họ Nguyễn bên Bình Giang sang tìm cụ Thủy Tộc Nguyễn Thái Bạt. Anh Thành nói ngay cháu là trưởng tộc họ Nguyễn Thái Bạt, hai bên gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Anh Thành kể lại một số thắc mắc trong dòng họ đang tồn tại về hai ngôi mộ cụ Thủy Tổ Nguyễn Thái Bạt.
-Vì chẳng biết có tìm thấy hay không đoàn Bình Giang, chưa chuẩn bị lễ, sau đó đoàn mua lễ thắp hương tại nhà Anh Thành, ra mộ thắp hương cho cụ Thủy Tổ Nguyễn Thái Bạt cùng cụ Bà. Mộ xung quanh đó đã xây hết, chỉ còn mộ hai cụ xây quây xung quanh, có tấm bia công đức chữ theo năm tháng đã mờ hết. Anh Thành mời các cụ cao niên trong chi tộc đến uống nước, hai bên họp bàn cùng đi đến thống nhất đến ngày 20 – 08 âm lịch năm Kỷ Sửu, là ngày húy nhật cụ Nguyễn Thái Bạt, tiến hành lễ nhận họ, dự giỗ cụ Nguyễn Thái Bạt lần đầu tiên. Cả Nguyễn tộc Tứ Kỳ - Bình Giang, vui vẻ xúc động chuyến đi vấn Tổ tìm Tông, đã tìm được Tổ Tông mình.
- Nội dung nhận Họ đã xong nhiều thắc mắc trong dòng họ đã hóa giải được, trong họ bàn bạc tiến hành xây dựng mộ Thủy Tổ Nguyễn Thái Bạt, trong họ Ngành 3 còn lưu lại cuốn gia phả bằng chữ Hán, người giữ là Nguyễn Văn Cẩm. Ông Yến, chú Bình, cháu Hùng tìm đến mượn bản Pô tô. Cháu Hùng thuê Viện nghiên cứu Hán Nôm dịch, Người dịch Thạc sĩ Nguyễn Hoàng Quí, Nguyên Cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm, để nhiều người có thể xem và hiểu được.
- Trong gia phả ghi cụ Thủy Tổ người quê ở đâu không ai biết, cho nên không giám ngộ nhận, nhiều người trong họ tin rằng cụ Thuỷ Tổ là người ở Thanh Hóa, vì theo các cụ cao niên trong họ kể lại ngày xưa mỗi độ xuân về tết đến ở Thanh Hóa, mang Hồng Cốm và Đào ra Tứ Kỳ đoàn ở lại chơi vài hôm rồi trở lại Thanh Hóa.
- Trong họ bàn bạc xây lại ngôi mộ Đức thuỷ tổ Nguyễn Thái Bạt, cùng cụ bà Chu Thị… Hiệu Ngọc Chiêu, giao cho Nguyễn Văn Hùng thiết kế lập dự toán, thông qua dòng họ. Mọi công tác chuẩn bị xây mộ cụ Thủy Tổ từ mẫu thiết kế, dự toán đã làm xong, trong họ nhất trí, quyết định xây dựng mộ Thủy Tổ.
* Thành lập Ban quản lý công trình:
1- Ông Nguyễn Hải Yến – Trưởng ban – Tổng chỉ huy Công trình
2- Nguyễn Văn Thành – Tộc trưởng
3- Nguyễn Văn Thông – Trưởng Ngành 2
4- Nguyễn Văn Lâm – Trưởng Ngành 3
5- Nguyễn Văn Bình – Chi tộc Bình Giang
6- Nguyễn Văn Hùng – Thiết kế kỹ thuật.
* Chịu trách nhiệm chính với công trình;
-Tổng chỉ huy công trình: Ông Nguyễn Hải Yến – Ngành 2 – Chi tộc Tứ Kỳ
-Thiết kế kỹ thuật: Nguyễn Văn Hùng – Chi tộc Bình Giang
-Trực tiếp thi công : Nguyễn Văn Lực – Ngành 3 - Chi Tộc Tứ Kỳ.
- Từ Tổng chỉ huy công trình, thiết kế, thi công, đều là hậu duệ của cụ cho nên rất yên tâm. Quan điểm thiết kế là Lăng Mộ của hàng Quan Triều, chứ không phải là hàng thứ dân, vì Lăng mộ xây sau nên quỹ đất không còn được rộng. Nhưng đảm bảo Lăng Mộ thiết kế theo lối cổ truyền, có hoa sen thể hiện sức mãnh liệt, phẩm chất thanh bạch ngay thẳng của cụ “ Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Có sách, bút thể hiện tài trí – Tâm Đức của cụ, với chốn quan trường, có Quy thể hiện vinh quy bái tổ.
Bàn thờ Hổ phù tứ linh, có 3 câu đối:

Câu đối 1: Tổ công tông đức thiên niên thịnh
Tử hiếu tôn hiền vạn đại vinh .
Dịch nghĩa là
Tổ công tông đức ngàn năm thịnh.
Con hiếu cháu hiền vạn đời vinh.

Câu đôi 2: Đối Mạc sơn hà song nhỡn bạch.
Phù Lê xã tắc nhất tâm đan.

Dịch nghĩa là: Đối Mạc sơn hà đôi mắt trắng.
Phù Lê xã tắc một lòng son.

Câu đối 3: Phù Lê cừu Mạc thanh danh hiển hách tráng sơn hà.
Thóa diện can trung nghĩa khí anh hùng lưu vạn cổ

Dịch nghĩa là Giúp Lê Hận Mạc thanh danh hiển hách tráng sơn hà.
Nhổ vào mặt, có gan trung, nghĩa khí anh hùng lưu vạn cổ

-Phía trước có tấm bia công đức của cụ thay cho bức trấn phong, có đường đi chữ chi tuy nhỏ nhưng tạo nên sự tụ khí cho ngôi mộ
Thế đất cao cho nên ngôi mộ cao nhất Đống Mả Đầu hiện nay.
* Khởi công ngày : 22/10 Kỷ Sửu ( 08-12- 2009)
* Khánh thành ngày : 30/11 Kỷ Sửu ( 14-01-2010 )
Buổi lễ khánh thành Lăng mộ Đức Thủy Tổ, được tổ chức rất trang trọng, hậu duệ mọi nơi về dự lễ đông đủ, trong niềm vui phấn khởi của cả dòng tộc.
-Sau buổi lễ khánh thành mộ Thủy Tộc Nguyễn Thái Bạt, bản thân Nguyễn Văn Hùng, đã vào nhiều trang điện tử của Tỉnh Thanh Hoá đọc xem có trang nào viết về cụ Nguyễn Thái Bạt không, nhưng rất thất vọng không thấy.
- Một hôm em Nguyễn Ngọc Cân – Nguyễn Tộc Bình Giang – Hiện đang ở tại 72 Cát Cụt – Lê Chân – Hải Phòng, có điện cho Nguyễn Văn Hùng – cư trú tại 47/49 - Đức Giang- Long Biên - Hà Nội nói :
Trong: Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục Chính biên tập 27 có viết về cụ Nguyễn Thái Bạt nhà ta, cụ đỗ Tiến Sĩ năm 1520, khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, cụ là người trung thành tuyệt đối với nhà Lê, bề tôi không phò hai chủ, cụ nhổ vào mặt Đăng Dung rồi tử tiết, anh thử vào mạng tìm đọc xem sao. Nguyễn Văn Hùng sau nhiều ngày tìm đọc sách trên mạng phát hiện ra: Đăng Dung sợ lòng người tưởng nhớ nhà Lê, sinh ra binh biến, vỗ về một cách giả tạo, tìm các con cháu của các trung thần tiết nghĩa, vời họ ra làm quan, nhưng con cháu các trung thần đó, họ đã chốn vào rừng sâu thay tên đổi họ hoặc trốn ra nước ngoài.
-Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục Chính Biên tập 33, viết về vua Lê Huyền Tông năm 1666 phục hồi chức quan, lập đền thờ Tiết Nghĩa Phúc Thần, tại quê thể lệ như tế lễ bách thần, cụ phong Trung Đẳng Thần, cùng 13 vị tiết nghĩa.
Nhiều bài viết nói về cụ Nguyễn Thái Bạt, đặc biệt các tàng thư cổ hiện có tại Thư viện, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, cụ Nguyễn Thái Bạt là người Xã Bình Lãng – Huyện Cẩm Giàng – Hải Dương, từ đây hướng tìm cụ chuyển sang hướng khác, vì trước kia, Nguyễn Văn Hùng vào mạng tìm cụ Nguyễn Thái Bạt quê ở Thanh Hóa, là không phải.
-Biết là Cụ đỗ Tiến sĩ khoa thi năm 1520 nhưng, Nguyễn Văn Hùng, hai lần sang Văn Miếu Quốc Tử Giám tìm không thấy có tên cụ, sau này mới biết là khoa thi của Cụ, chưa được khắc văn bia.
- Ngày tháng năm Nguyễn Văn Tân, Nguyễn Văn Hùng, tìm về Văn Miếu Mao Điền – Cẩm Giàng – Hải Dương, thấy có tên Cụ tại khoa thi Canh Thìn năm 1520, Cụ đỗ Hoàng Giáp Tiến sĩ xuất thân, hai anh em vào lễ tại Văn Miếu Mao Điền, hỏi Ban Quản Lý về thân thế sự nghiệp Tiến sĩ Hoàng Giáp Nguyễn Thái Bạt, thông tin không được là bao nhiêu. Ngày tháng năm sinh? không có, năm bao nhiêu tuổi đỗ Tiến Sĩ? không có.
-Hai anh em hỏi thăm đường vào Thôn Bình Lãng cũ nay là thôn Bình Phiên – Xã Ngọc Liên – Huyện Cẩm Giàng – Tỉnh Hải Dương, cũng rất may có cháu làm ở Văn Miếu - Mao Điền là người thôn Bình Phiên, lên hai anh em đi vào rất thuận tiện. Hỏi thăm vào Đền Tiết Nghĩa Phúc thần, gặp Ban quản lý Đền Tiết Nghĩa Phúc Thần, gặp ông Hòe, trông nom đền, vào nhà ông nói chuyện đặt vấn đề đi tìm cụ Thủy Tổ Nguyễn Thái Bạt. Ông Hòe nói chuyện ở đây còn một chi hậu duệ của Cụ, các cháu có muốn gặp không ? Ông Hòe chỉ đường hai anh em đến nhà anh Nguyễn Khánh Đắc là hậu duệ của Cụ, anh em gặp nhau nói chuyện trao đổi một số vấn đề về cụ Thủy Tổ Nguyễn Thái Bạt. Bên chi tộc Bình Lãng - Cẩm Giàng – Hải Dương, tài liệu viết về cụ Nguyễn Thái Bạt lưu giữ không có nhiều, không còn gì ngoài Đền Tiết Nghĩa Phúc Thần, mới xây dựng lại trên nền móng cũ sau nhiều năm chiến tranh tàn phá.
-Không biết Cụ sinh năm bao nhiêu ? thi đỗ năm bao nhiêu tuổi ? các tài liệu để lại thông tin về Cụ không có nhiều, rất bế tắc không biết tìm thông tin ở nơi đâu ? Đúng là trong lúc bế tắc Cụ rất linh thiêng soi đường dẫn lối cho con cháu tìm ra. Một hôm Nguyễn Văn Hùng vào mạng Intenet, tìm mục Di sản Hán Nôm- Viện Nghiên Cứu Hán Nôm, vu vơ đánh chữ Thần ở mục tìm kiến, tự dưng xuất hiện dòng chữ “ Sự tích Lê triều Bảng Nhãn Nguyễn Thái Bạt, linh ứng Đại vương, về thôn Phan Xá - Xã Tống Phan - Huyện Phù Cừ - Tỉnh Hưng Yên”. Nguyễn Văn Hùng không tin vào mắt mình, nhưng lại nghĩ có lẽ không phải cụ Thủy Tổ của mình, vì Cụ đỗ Tiến Sĩ – Hoàng Giáp, không phải là Bảng Nhãn. Hùng liền điện cho ông Bình ở Bình Giang, ông Yến, anh Thành bên Tứ Kỳ, anh Đắc Cẩm Giàng, mọi người không ai tin sao lại như thế ? Vì tất cả đều là hậu sinh không biết được các bí mật về Cụ.
- Ngày 30 - 04 -2010 đúng một năm chi Nguyễn tộc Bình Giang đi vấn tổ tìm tông, hai chú cháu ông Nguyễn Văn Bình, cháu Nguyễn Văn Hùng, lên đường tìm sang: Thôn Phan Xá - Xã Tống Phan - Huyện Phù Cừ - Tỉnh Hưng Yên. Có bản đồ địa hình nên việc xác định đường đi không khó nắm, cũng rất may tên địa phương không thay đổi. Sau 3 lần hỏi thăm do tổ tiên liêng thiêng dẫn đường hai chú cháu đã có mặt tại nhà Trưởng thôn Phan Xá. Trưởng thôn mời hai chú cháu uống nước, ông Bình hỏi trưởng thôn làng ta thờ vị Thành Hoàng tên gì, trưởng thôn trả lời: Làng tôi thờ vị Thành hoàng Lê triều Bảng Nhãn Hàn Lâm Thị Thư Nguyễn Thái Bạt, quê ngài ở Bình Lãng – Cẩm Giàng – Hải Dương. Nghe song hai chú cháu cùng thốt lên cảm ơn trời phật, Đức Thủy Tổ linh thiêng, mừng quá, niềm vui không kể xiết, trưởng thôn cho xem hồ tài liệu Bản Thần Tích của cụ Thành Hoàng Nguyễn Thái Bạt, trong đó viết rõ ràng đầy đủ thân thế sự nghiệp, thần sắc các đời vua sắc ban tặng, cả họ tên Thân Phụ, Thân Mẫu của Cụ, thật là sung xướng làm sao thầm cảm ơn Đức Thủy Tổ linh thiêng soi đường cho hậu duệ của Cụ đã biết được, tìm đến mảnh đất mà gần 500 năm Đức Thủy Tổ Nguyễn Thái Bạt, mang đạo học truyền cho dân làng.
- Trưởng thôn đón tiếp hai chú cháu rất nồng hậu như đón tiếp người một nhà vậy, trưởng thôn điện cho Ban quản lý di tích lịch sử, hai chú cháu mua lễ vào đình làng dâng hương lễ lạy Cụ. Hai chú cháu mạn đàm cùng với Ban quản lý di tích, Ban quản lý có ý trách sao hậu duệ của Ngài sao bây giờ mới sang đến đây, hai chú cháu nói thật lòng là không biết, mà cách đây 20 ngày tìm trên mạng thấy có Thần Tích Cụ Nguyễn Thái Bạt, linh ứng về địa phương ta, hai chú cháu sang xem thực hư thế nào?
- Ban quản lý di tích thôn Phan Xá cung cấp cho hai chú cháu toàn bộ tài Liệu, viết rất đầy đủ, ngày tháng năm sinh của Cụ, ngày tháng năm thi đỗ Hương Cống, thi đỗ Tiến Sĩ, các Sắc Phong của các đời Vua, họ tên hai cụ thân sinh ra Đức Thủy Tộc. Ban quản lý nói khu di tích vừa được UBND tỉnh Hưng Yên, công nhận xếp hạng cấp Tỉnh. Mong rằng hậu duệ của Cụ từ nay có tài liệu nào nói về Cụ cung cấp cho Ban quản lý di tích, nguyện vọng của nhân dân Phan Xá muốn khu di tích được nhà nước công nhận, xứng đáng với công lao trời biển của Ngài, Ban quản lý sao lục Thần Tích, Thần Sắc, của Cụ tại đình Phan Xá – Xã Tống Phan – Huyện Phù Cừ - Tỉnh Hưng Yên: Bản phả ghi chép về Đại vương, triều Lê Chiêu Tông thời hậu Lê ( Thuộc hạng trung trong bộ Cấn chi) là bản chính của Bộ Lễ - Quốc triều Lê. Soạn ngày tốt tháng mạnh xuân ( tháng Giêng) năm Hồng Đức nguyên niên (1557) do Hàn Lâm Lễ Viện, Đông Các Đại Học thần Nguyễn Bính soạn bản Hoàng Triều. Sắc Phong Nguyễn Thái Bạt Linh ứng Đại Vương, sắc chuẩn cho dân Phan Xá thờ phụng.
Đạo Sắc phong có 05 đạo chủ yếu là của triều Nguyễn; niên hiệu Tự Đức : 02 đạo; niên hiệu Quang Thiệu : 01 đạo; niên hiệu Khải Định 02 đạo.
Nguyễn Văn Hùng phô tô nhiều bản gửi cho các chi tộc để tham khảo.
- Tiếp tục tìm kiếm trên mạng còn nhiều tài liệu nằm trong thư viện của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, còn đang lưu giữ, Thần Sắc, tục lệ nhân dân thôn Bình Phiên – xã Ngọc Liên- Huyện Cẩm Giàng – Tỉnh Hải Dương ngày nay. Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Văn Cường, Nguyễn Văn Quyền đầu tư kinh phí thuê Thạc sĩ Nguyễn Hoàng Quí, nguyên là cán bộ của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, đọc tìm kiếm, phô tô dịch thuật phiên âm sang chữ quốc ngữ để mọi người cùng xem tài liệu viết về cụ Thủy Tổ Nguyễn Thái Bạt, mà thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm đang lưu giữ. Ngày 20- 08- 2010 âm lịch là xong đúng ngày giỗ Cụ, tài liệu này được phô tô ra nhiều bản gửi cho các chi tộc Tứ Kỳ, Bình Giang, Bình Phiên - Cẩm Giàng, Văn Thai, Đông Anh, Ban quản lý di tích Thôn Phan Xá, mọi người đọc đều thầm cảm ơn tài đức của Thủy Tổ, đồng thời hiểu được phong tục thờ cúng tế lễ cụ Nguyễn Thái Bạt, tại đền tiết nghĩa Phúc Thần..
- Trong Bản tục lệ xã Bình Lãng nay là thôn Bình Phiên có ghi cụ Nguyễn Thái Bạt có 8 sắc phong, tìm ở Viện Nghiên cứa Hán Nôm đang lưu giữ 03 đạo trong đó niên hiệu Cảnh Hưng: 02 đạo; niên hiệu Chiêu Thống: 01 đạo; còn lại 05 đạo nữa chưa tìm được và không biết hiện đang ở đâu? Sau này cần phải tìm đầy đủ các Sắc Phong cho Cụ thì tốt.

Ngày 02 -10-2010 (19-8 Canh Dần)
-Là ngày giổ Thủy Tổ Nguyễn Thái Bạt, chi tộc Tứ Kỳ có mời, Ban quản lý di tích đình thôn Phan Xá – xã Tống Phan – huyện Phù Cừ - tỉnh Hưng Yên.
Nguyễn Tộc chi Bình Phiên, quê hương của Cụ sang nhà anh Thành trưởng tộc. tại Thôn Tứ Kỳ Thượng – Xã Ngọc Kỳ - Huyện Tứ Kỳ - Tỉnh Hải Dương. Dâng hương, Nguyễn tộc Tứ Kỳ, nơi đây hàng trăm năm nay cha truyền con lối hàng năm giỗ cụ Nguyễn Thái Bạt vào 20-08.
- Khi đoàn Bình Phiên dâng lễ thắp hương cụ lúc đó khoảng 9h 30 phút, lúc đó xuất hiện Ông Dơi bay chao lượn 3 vòng trong nhà anh Thành, Hùng định đưa máy ảnh lên chụp nhưng không kịp, chỉ biết nói với mọi người là cụ Thủy Tổ về đấy, sau đó ông Dơi bay ra trong sự ngơ ngác của mọi người, đúng sai tâm linh thế nào không ai hiểu được những hiện tượng lạ lùng như vậy.
- Sau đó cả đoàn sang Đình Phan Xá dâng hương Thành Hoàng Nguyễn Thái Bạt, cùng mạn đàm về thân thế sự nghiệp Đức Thủy Tổ Nguyễn Thái Bạt, cụ Nguyễn Đình Thi thay mặt cho hội người cao tuổi, phát biểu cảm ơn hậu duệ của Thành Hoàng bớt chút thời gian sang dâng hương, mong muốn từ nay, hậu duệ của Cụ cùng dân làng, thắt chặt hơn nữa, quan hệ giao lưu, tìm kiếm đầy đủ các tài liệu nói về thân thế sự nghiệp của Ngài, Ban quản lý di tích nói: Thật là phúc đức, vô cùng quí giá hiếm có Thành Hoàng nào lại còn hậu duệ đông đúc đến như vậy. Lúc trên đường đi từ đình thôn Phan Xá, về anh Chính chi tộc Bình Phiên – Cẩm Giàng có nói còn chi tộc trên Xuân Canh – Đông Anh – Hà Nội.

Ngày 08 -10 – 2010.
- Nguyễn Văn Tân, Nguyễn Văn Hùng, 7h sáng hai anh em sang Xuân Canh – huyện Đông Anh – Hà Nội, nhưng sau đó chính xác: Thôn Xuân Hương – Xã Xuân Trạch – Đông Anh – Hà Nội.
-Đến nhà anh Nguyễn Đắc Thành trưởng tộc, sau khi anh em trao đổi nói chuyện được biết chi Xuân Trạch, nguồn gốc từ Văn Thai lên Đông Anh, đến nay khoảng 13 đời. Nơi đây còn có nhà thờ Họ anh Thành đang trông giữ, hai anh em vào thắp hương tại nhà thờ Nguyễn Tộc Tiểu chi, thắp hương xong tự dưng Hùng thấy chân tay lạnh, ngón tay cứng lại, gọi anh Tân không hiểu sao tay em cứng lại thế này, không rõ ai nhập vào? Ngồi nghỉ một lúc mới hoàn hồn, không thể giải thích được những sự việc lạ như vậy?
Chi Xuân Trạch có gia phả, ghi chép tương đối đầy đủ, còn ghi cả bài văn tế Lễ cụ Nguyễn Thái Bạt, tại đền Tiết Nghĩa Phúc Thần, chi Xuân Trạch – Đông Anh hậu duệ con cháu khá đông, khoảng 300 nhân khẩu, tách ra chi trong Nguyễn Đắc, chi ngoài Nguyễn Viết, cả hai chi đều có nhà thờ họ.

Ngày 23 -10 – 2010.
Đúng 7h 15 phút Nguyễn Văn Hùng, cùng chú Nguyễn Văn Bình, sang thôn Văn Thai – Xã Cẩm Văn – Huyện Cẩm Giàng – Tỉnh Hải Dương.
Trên đường đi chú Bình có nói chuyện Văn Miếu Mao Điền vừa khánh thành Bia đá không rõ là Bia gì, hai chú cháu đến Lai Cách lại quay sang Văn Miếu Mao Điền, xem cụ thể thế nào, hai chú cháu thắp hương, làm việc với Ban quản lý Văn Miếu Mao Điền : Về Thân thế sự nghiệp Tiến sĩ – Hoàng Giáp Nguyễn Thái Bạt, khoa thi Canh Thìn năm 1520. Ban quản lý nói rất mong các dòng Họ có các Tiến sĩ cung cấp thông tin để Văn Miếu có tài liệu trưng bày, giúp du khách thập phương tham khảo tìm hiểu thân thế sự nghiệp của các Tiến Sĩ. Hai chú cháu thống nhất sẽ về bàn với dòng họ cung cấp đầy đủ tài liệu về Tiến Sĩ Nguyễn Thái Bạt, làm bìa đẹp để trưng bày.
Hai chú cháu tiếp tục đi sang Thôn Văn Thai – Xã Cẩm Văn – Cẩm Giàng – Hải Dương, vì đã xem trước bản đồ địa hình, chú Bình cũng đến nơi này, nên tìm Văn Thai không khó lắm, sau khi hỏi thăm đến nhà anh Nguyễn Văn Mệnh. Vào cửa hàng kinh doanh, anh Mệnh mời 2 chú cháu uống nước, chú Bình giới thiệu, Nguyễn Tộc Bình Giang – Chi tộc Tứ Kỳ - Bình Giang, cụ Tổ Bình Giang từ Tứ Kỳ sang, cụ Thủy Tổ Nguyễn Thái Bạt, đã tìm được họ, đồng thời xây dựng mộ Thủy Tổ Nguyễn Thái Bạt, anh Mệnh mời hai chú cháu vào trong nhà thờ Nguyễn Tộc tại Văn Thai – Cẩm Văn – Cẩm Giàng – Hải Dương. Hai chú cháu cùng anh Mệnh mạn đàm, thông báo một số nội dung, trong dòng họ cần thống nhất. Vì cụ Thủy Tổ đã lâu năm, lại bị chu di tam tộc, do trung thành với nhà Lê con cháu chạy hết vào Thanh Hóa, tài liệu không để lại đầy đủ, do vậy cần có sự thống nhất trong dòng Họ Nguyễn Thái Bạt. Hùng mang máy tính sách tay, cho anh Mệnh xem toàn bộ, ảnh xây dựng mộ Thủy Tổ. đồng thời cung cấp cho anh Mệnh toàn bộ tài liệu dịch từ Viện Nghiên cứu Hán Nôm viết về Thủy Tổ Nguyễn Thái Bạt. Đến trưa anh Mệnh mời hai chú cháu ăn cơm, cùng một số thành viên trong dòng họ, đến chiều cùng anh Mệnh ra mộ cụ Nguyễn Chi Thăng, dòng tộc đang ý định xây mộ cho cụ, có mương nước cắt ngang qua, không rõ nấm mộ, Hùng góp ý với anh Mệnh do nấm mộ không còn, mà mộ mình xây vĩnh cửu, sau này không thể sửa đổi được nữa, làm không đúng rất áy láy lương tâm, tốt nhất anh em đi xem gọi cụ xem cụ nằm chính xác ở vị trí nào để xây cho đúng. Anh Mệnh tổ chức đi sang cậu Hài – Ân Thi – Hưng Yên nay chiều nay, Hùng nói nhất trí theo ý kiến của anh, cần định vị các ngôi mộ xung quanh để xem sang đó cậu Hài định vị tọa độ mộ có đúng không, sau đó kết quả thông báo lại thật sử mĩ mãn.
-Hai chú cháu tiếp tục sang anh Đắc – Bình Phiên thông báo lại một số nội dung, khi gặp chi Nguyễn Tộc Văn Thai.
-Hai chú cháu tiếp tục đi sang Thôn Kim Quan – Xã Kim Giang – Cẩm Giàng – Hải Dương, hỏi thăm vào Đình làng Kim Quan, nơi thờ cụ Lại Kim Bảng, cụ Hoàng Duy Nhạc, cụ Nguyễn Thái Bạt không có bài vị tại đây, vì xưa kia cụ Nguyễn Thái Bạt, cụ Lại Kim Bảng, thờ cùng gọi là tiết nghĩa song từ, sau đó nhân dân Kim Quan đón cụ Lại Kim Bảng về đình Làng quê hương của cụ, là bạn bè của nhau cho nên khi tế lễ cụ Lại Kim Bảng, có cung thỉnh cụ Nguyễn Thái Bạt, về đồng âm hiến hưởng. Sau khi đi Văn Thai về, Nguyễn Văn Hùng điện cho bên Tứ Kỳ, báo cáo cho Anh Thành trưởng tộc ông Yến – Tứ Kỳ, toàn bộ qua trình hôm 19 - 08 - 2010 Âm lịch bên Văn Thai chưa biết, nên không sang Tứ Kỳ dâng hương giỗ Cụ được. Nguyễn Tộc Văn Thai sẽ tổ chức sang thăm viếng dâng hương Lăng mộ Cụ Thủy Tổ Nguyễn Thái Bạt, đình làng Phan Xá nơi cụ là Thành Hoàng Làng vào một ngày gần đây.

Ngày 31 -10 – 2010.
Nguyễn Tộc Văn Thai, tổ chức đoàn sang dâng hương viếng Lăng mộ Thủy Tổ Nguyễn Thái Bạt, lễ tại đình Phan Xá, nơi cụ Nguyễn Thái Bạt, là Thành Hoàng Làng, nơi cụ cho dân 5 hốt bạc lớn, để xây trường học, dạy chữ cho dân, ngôi đình là trường học cũ, vì lúc đó Cụ nói nơi đây là trường học sau này là nơi tế lễ thờ cúng Cụ, Cụ còn mua nhiều điền tự phục vụ cho thờ cúng sau này. Dân làng Phan Xá tự hào là đã từng có thời gian nâng giấc tinh thần cho Cụ, lúc bình sinh nghe con trẻ học bài. Thành phần gồm đầy đủ các chi tộc, đi đến thống nhất họp bàn thành lập Ban liên lạc Họ Nguyễn Thái Bạt, sau đó dự thảo Qui chế Họ Nguyễn Thái Bạt. Lần đầu tiên về với cội nguồn Nguyễn Tộc Văn Thai, rất súc động bàng hoàng, niềm vui không kể siết, vì các hậu duệ chi tộc Tứ Kỳ - Bình Giang đã làm được, từ xây Lăng mộ Đức Thủy Tổ, công trình là di sản để lại muôn thủa cho con cháu mai sau. Việc tìm ra ngôi đình làng Phan Xá – Xã Tống Phan – Huyện Phù Cừ - Tỉnh Hưng Yên, là niềm hạnh phúc to lớn của cả dòng họ chúng ta thầm cảm ơn sự linh thiêng của Đức Thủy Tổ. Được sự quan tâm của UBND tỉnh Hưng Yên đầu tư nâng cấp hậu cung của ngôi đình. Ban quản lý di tích mời hậu duệ của Cụ về dự lế khánh thành, hậu cung dâng hương vào ngày 6 – 11-2010 tức ( 02-10 Canh Dần) hậu duệ nhận lời.

Ngày 04 -11 – 2010
Lúc 13h 30 phút Nguyễn Văn Hùng sang Viện thông tin khoa học xã hội Việt Nam, vào thư viện nhờ tra cứu Bản thần tích Thần Sắc cụ Nguyễn Thái Bạt Tại Bình Lãng – Tổng Ngọc Trục - Cẩm Giàng – Hải Dương
Không thấy nội dung Thần Sắc mà chỉ thấy: Bảng thống kê Thần Sắc xã Bình Lãng, tổng số có 22 đạo, không có nội dung cụ thể từng đạo một, thật là buồn không biết 5 đạo còn lại của Cụ Hiện đang nằm ở đâu

Ngày 06 -11 – 2010 (02-10 Canh Dần)
Theo lời mời của Ban quản lý di tích, hậu duệ của Cụ trở lại đình Phan Xá dâng hương khánh thành hậu cung, hôm đó chi tộc Bình Giang có giỗ bà nội ( mẹ ông Đề, Ông Bình) không thể sang dự được. Sáng Hùng điện cho anh Chính xem đi đến đâu lúc đó đoàn Hùng về giỗ bà nội đến Phố Nối, đoàn anh Chính đến Kẻ Sặt, không ai hẹn ai, đến Phủ Cũ Hùng xuống mua lễ về thắp hương, gặp đoàn Văn Thai – Bình Phiên - Cẩm Giàng, đang mua lẵng hoa sang dự khánh thành hậu cung đình thôn Phan Xá, anh em gặp nhau vui vẻ, chụp ảnh kỷ niệm, sau đó chia tay nhau từng đoàn đi theo kế hoạch riêng của mình, buổi chiều đoàn huệ duệ vào thăm Nguyễn tộc Bình Giang, do không có điều kiện thời gian đoàn chỉ đế nhà Ông Đề, Ông Bình đại diện.
-Ngày 24 -11 – 2010 (20-10 Canh Dần)
Chuẩn bị đến ngày kỷ niệm 10 năm khánh thành nhà thờ chi tộc Văn Thai – Cẩm Giàng – Hải Dương có mời các chi tộc, cùng các Hậu duệ về dự. Ban quản lý di tích thôn Phan Xá – Xã Tống Phan cũng về dự, buổi lễ diễn ra trong không khí vui vẻ đầm ấm, trang trọng, thân thương, tổ chức tế lễ theo ghi thức cổ truyền có đội tế, đọc Văn tế, cụ Tổ. Sau đó tiến hành hội nghị tổng kết 10 năm xây dựng nhà thờ,
- Đọc báo những việc mà chi tộc Văn Thai đã làm được do ông Mệnh báo cáo,
- Đại diện Ban quản lí di tích Đình làng Phan Xá phát biểu,
- Đại diện các chi tộc, phát biểu tham luận về cụ Đức Thủy Tổ Nguyễn Thái Bạt, làm rõ Thân thế sự nghiệp của Ngài cho cả dòng tộc biết và hiểu được, công lao của Ngài với triều đại nhà Lê.
Buổi lễ tổ chức chu đáo chặt chẽ, cần để cho các chi tộc khác học tập, làm theo.

-Ngày 05 -12 - 2010 (29-10 Canh Dần)
Nguyễn Văn Hùng bàn với bố mẹ mình là Ông Nguyễn Văn Đề, bà Trần Thị Tý, về việc xây nhà thờ họ Nguyễn Thái Bạt – Chi tộc Bình Giang trên nền đất cũ mà tổ tiên Nguyễn Tộc Bình Giang nhiều đời sinh sống.
Tiến hành khảo sát đo vẽ quy hoạch dự kiến đến năm 2025, đã thiết kế xong mặt bằng các hạng mục. Mang về thông qua ông bà Đề, ông bà Bình, gửi ông Bình một bản để xin ý kiến dòng họ. Hùng dặn ông Bình không cho ai mượn sợ người ta Phô tô sau này lại bảo mình bắt chước mẫu của người ta. Bản vẽ còn phải hiệu chỉnh nhiều lần, toàn bộ khu đất nhà Ông Bà Đề là khu nhà thờ trong tương lai, vì mảnh đất này nhiều đời dòng tộc Nguyễn các cụ Tổ tiên ở nơi đây. Mọi quy hoạch, tính toán mặt bằng đáp ứng cho thế hệ sau, vài trăm năm nội thất nhà thờ không bị lỗi thời, bảo đảm mang tính cổ truyền, đậm đà bản sắc dân tộc, phù hợp với xu hướng chung của thời đại.
*Dự kiến gồm các hạng mục sau:
1-Từ đường Họ Nguyễn Thái Bạt – Chi tộc Bình Giang, dự kiến xây dựng 2015.
2-Cổng Từ đường : Dự kiến xây dựng 2020.
3-Nhà Bia lưu truyền hậu thế: Dự kiến xây dựng 2025.
4-Nhà sinh hoạt : Dự kiến về sau
-Tùy điều kiện cụ thể, để có thể triển khai các nội dung công việc, nhưng phải có quy hoạch tổng thể tránh sau này, xây rồi lại phá đi vì không phù hợp. Về lâu dài sau này nhà sinh hoạt là nhà khách để hậu duệ về có nơi ngủ nghỉ.
-Ông Bình ở nhà lấy ý kiến cả họ về việc này, toàn bộ Nguyễn Tộc Bình Giang tập trung nhau lại xây một nhà thờ, là trung tâm, tâm linh của cả dòng họ ( Sẽ có nghiên cứu Báo cáo khả thi sau)

Ngày 05 -12 - 2010 (26- tháng Chạp Canh Dần)
Nguyễn Văn Hùng, cùng chú Nguyễn Văn Bình, sang tết Tứ Kỳ, tại nhà anh Thành tộc trưởng rất may gặp được tất cả anh em anh Thành. Ông Bình đại diện cho chi tộc Bình Giang chúc tết bên Tứ Kỳ, sau đó đặt vấn đề, xây dựng nhà thờ cụ Nguyễn Thái Bạt, tại đất tổ cũ, nhà bố mẹ anh Thành ở cũ, các em anh Thành nhất trí, nên làm như vậy, anh Thành còn lo về kinh phí xây dựng, nhưng ông Bình nói vấn đề đầu tiên là phải có đất đã, song từng bước chúng ta lo liệu kinh phí xây dựng, phát động công đức xây dựng, vì không chi tộc nào duy trì ngày giố cụ Nguyễn Thái Bạt mà chỉ có chi Tộc Tứ Kỳ, vừa có Lăng Mộ vừa tổ chức giỗ Cụ hàng năm.
Sau đó hai chú cháu sang chơi nhà ông Yến, chúc tết gia đình, ông Bình báo cáo lại vấn đề với ông Yến, là có đặt vấn đề với anh em anh Thành, về xây nhà thờ cụ Nguyễn Thái Bạt, tại đất bố mẹ anh Thành ở cũ. Công việc cơ bản thuận lợi, qua tết chúng ta bàn thêm nội dung chi tiết cho 10 - 3 Lễ hội Thành Hoàng Nguyễn Thái Bạt tại đình Phan xá – xã Tống Phan – Huyện Phù Cừ - tỉnh Hưng Yên. Ông Yến nói ông Bình đặt vấn đề như vậy là hợp lý và khách quan, dần dần tưng bước ta triển khai xin ý kiến toàn thể gia tộc.

Ngày 26 -03 - 2011 (26 – Tân Mão)
Ban liên lạc Họ Nguyễn Thái Bạt họp, trước khi họp các đại biểu ra dâng hương viếng mộ Đức Thủy Tộc Nguyễn Thái Bạt. Cuộc họp có đầy đủ đại biểu các chi tộc, nôi dung chủ yếu bàn về ghi lễ tổ chức ba ngày lễ trọng đại
* Đó là ngày 14 – 01 tế lễ cụ Tại Bình Phiên - Ngọc Liên – Cẩm Giàng - Hải Dương. Đồng thời cũng bàn bạc nội dung quan hệ chính quyền địa phương thôn Bình Phiên, giải quyết tình bước, vấn đề Ngôi Đền Tiết Nghĩa Phúc Thần, vận dụng linh hoạt, ngoại giao khéo léo, tổ chức dòng họ dâng hương. Tuyên truyền thân thế sự nghiệp công đức của Thủy Tổ Nguyễn Thái Bạt, để Trưởng thôn, Ban quản lý Đền Tiết Nghĩa hiểu, từng bước dòng họ phối kết hợp, với địa phương, cùng nhau giải quyết, những vướng mắc nảy sinh.
*Ngày giỗ cụ Thủy Tổ 20 – 08 dự kiến 2 năm 1 lần tổ chức tại nhà anh Thành trưởng tộc Thôn: Tứ Kỳ Thượng – Ngọc Kỳ - Tứ Kỳ - Hải Dương.
*Ngày 10 - 03 ( Lệ cũ 15-3) Tế lễ Thành Hoàng Nguyễn Thái Bạt tại đình Thôn Phan Xá – Xã Tông Phan – Huyện Phù Cừ - Tỉnh Hưng Yên.
Là ngày có ý nghĩa thiêng liêng thành kính với cả dòng họ, cách thức tổ chức cả họ chung một lễ, xây dựng quỹ dòng Họ Nguyễn Thái Bạt, mục đích hoa đăng tế lễ cụ Nguyễn Thái Bạt, ba ngày lễ trọng.
*Dự kiến mỗi xuất đinh đóng : 30.000 đ, Ban liên lạc mong các Tổ chức cá nhân, doanh nghiệp phát tâm công đức xây dựng quỹ, quỹ này các chi tộc giữ, chi tiêu tế lễ, Ban liên lạc thống nhất chi ở các nơi. Giao cho Nguyễn Văn Hùng thư ký soạn thảo Kính báo tri âm Họ Nguyễn Thái Bạt lần thứ nhất, gửi đến các địa phương tế lễ cụ Nguyễn Thái Bạt, để hợp đồng, gửi đến các hậu duệ để lưu truyền, hậu duệ hiểu được thân thế sự nghiệp, thần tích, thần sắc các triều đại vua Sắc phong cho Cụ..
* Công tác chuẩn bị cho ngày 10-3 Tế Lễ Thành Hoàng Nguyễn Thái Bạt. Ban liên lạc giao cho Ông Nguyễn Văn Bình, soạn đọc văn tế cụ Thủy Tổ Nguyễn Thái Bạt, tại đình Phan Xá – xã Tông Phan – Huyện Phù Cừ - Tỉnh Hưng Yên. Kính báo tri âm Họ Nguyễn Thái Bạt, đã soạn xong Hùng gửi thư về thông qua xin ý kiến ông Yến, đề nghị hiệu chỉnh thêm bớt, xong thêm câu “Giọt máu đào hơn ao nước lã” Hùng tổ chức in ấn 158 bộ, gửi đến các địa phương, các hậu duệ, cùng tham khảo.

Ngày - 4 - 2011 ( 10 - 03 Tân Mão)
Dòng họ hậu duệ dâng hương tế lễ Thành Hoàng Nguyễn Thái Bạt, tại đình Phan Xá, ban tổ chức lễ hội long trọng ra tận đầu làng đón lễ của hậu duệ Thành Hoàng làng trong không khí trang trọng thiêng liêng thành kính, vì gần 500 năm huệ duệ mới tìm thấy được thủy tổ là Thành Hoàng thôn Phan Xá. Hậu duệ dâng hương, sau đó tiến hành dự lễ khai mạc hội làng, nghe đọc thân thế sự nghiệp Thành Hoàng Nguyễn Thái Bạt, tiến hành rước kiệu trong bầu không khí liêng thiêng, tấm lòng kính trọng công lao to lớn của Thành Hoàng làng đối với dân tộc nói chung và nhân dân thôn Phan Xá nói riêng, ăn cơm tại thôn Phan Xá, đến chiều đoàn hậu duệ viếng Lăng mộ Đức Thủy tộc Nguyễn Thái Bạt tại Thôn Tứ Kỳ Thượng – Xã Ngọc Kỳ - Huyện Tứ Kỳ - Tỉnh Hải Dương.

Ngày 07 -05 - 2011 (26 – Tân Mão).
Sang nhà Bác nguyễn Viết Kỳ trưởng chi Nguyễn Viết - Nguyên quán Xuân Trạch – Xuân Canh – Đông Anh – Hà Nội

Ngày 07 - 06 - 2011 ( – Tân Mão).
Nguyễn Văn Hùng điện thoại cho Anh Phụ - Hỏi về gia phả được anh Phụ kể chuyện thật tình cờ gặp bố chồng chị Nguyễn Hoàng Quí, là chính ủy cũ của Anh Phụ, hôm gặp ở nhà chị Quí ( Chị Quí nguyên là cán bộ Viện Nghiên cứu hán Nôm, người tìm kiếm, dịch thuật tài liệu viết về cụ Nguyễn Thái Bạt), chồng chị Quí nhận xét : " Cái cậu Hùng do các cụ nhà ông linh thiêng, hay là ốp vào nó thế nào ấy ? thúc giục nó, hay có cái gì đó ? Các cụ chỉ đường cho nó hay thế nào đó ? mà tôi thấy nó nhờ cậy thúc dục bà Quí nhà tôi ngày đêm vào Viện Hán Nôm, tìm sao lục, dịch thuật, in ấn, các tài liệu Hán nôm liên quan đến cụ Thủy Tổ của các ông, thật là quí hóa khi dòng họ có những con người như vậy". Chồng chị Quí nhận xét với anh Phụ một cách khách quan phần nào động viên bản thân Nguyễn Văn Hùng cố giắng tìm hiểu các phần tài liệu còn lại của cụ Đức Thủy Tổ Nguyễn Thái Bạt.

Ngày - 2011 ( – Tân Mão).
Chi tộc Đông Anh về dâng hương tại Đình Làng Phan Xá – Xã Tống Phan Huyện Phù Cừ - Tỉnh Hưng Yên, và mộ Đức Thủy Tổ Nguyễn Thái Bạt

Ngày 5/3 - 2013 ( 24–Giêng Quí Tỵ).Tìm chi Cao Thọ - Vạn Ninh -
Lúc 12h trưa Ông Nguyễn Văn Bình cùng cháu Nguyễn Văn Hùng, sang Văn Thai dự cưới con Nguyễn Văn Mệnh. Có sang chi tộc họ Nguyễn tại Thôn Cao Thọ - xã Vạn Ninh, Huyện Gia Bình – Tỉnh Bắc Ninh. Cách chi tộc Văn Thái 16km, sang Cao Thọ gặp trưởng họ Nguyễn Thế Liễn, cùng các cụ các ông trong dòng họ. Dòng họ Nguyễn tại nơi đây có khoảng 60 hộ nóc nhà, có nhà thờ tự, có đội tế riêng trong họ, dòng họ phát triển đến nay được 13 đời, nguồn gốc của chi tộc này từ Văn Thai đi, và có một nhánh lên Xuân Trạch – Xuân Canh – Đông Anh – Hà Nội sinh sống. Ông Bình đã làm việc cùng với trưởng họ và các cụ cao niên trong dòng họ, mọi người gặp nhau rất vui vẻ phấn khởi. Ông Bình giới thiệu qua về thân thế cuộc đời của đức thuỷ tổ Nguyễn Thái Bạt, quá trình đi tìm hiểu các chi tộc trong dòng họ, cùng đi đến thống nhất một số nội dung công việc trong dòng họ, đề nghị chi tộc Cao Thọ cử thành phần vào hội đồng gia tộc họ Nguyễn Thái Bạt, để thuận tiện liên lạc. Nguyễn Văn Hùng sao chụp gia phả chi Cao Thọ - Vạn Ninh – Gia Bình – Bắc Ninh, tặng chi tộc tài liệu viết về thân thế sự nghiệp cụ Nguyễn Thái Bạt. Đến 14h30 hai chú cháu chia tay chi tộc họ Nguyễn tại Cao Thọ - Vạn Ninh, sang Văn Thai dự cưới con ông Nguyễn Văn Mệnh, kể lại cho ông Mệnh nghe, ông Mệnh nói hôm nào sẽ sang tìm hiểu cụ thể chi tiết.

B- DÒNG HỌ TRONG GIA PHẢ CŨ

Trong tất cả Gia phả cũ viết bằng chữ Hán, chữ Nôm, đã được phiên âm ra
chữ Quốc ngữ, chỉ có gia phả Ngành 3- Chi tộc Tứ Kỳ ghi chép rất đầy đủ, phần đầu ghi chép chưa được tỉ mỉ, các phần sau ghi chép tương đối chi tiết rõ ràng.
I- GIA PHẢ CHI TỘC TỨ KỲ - BÌNH GIANG
a- Gia Phả Ngành 1
* Gia phả nhánh 1 – Anh Thành Do nhà bị cháy gia phả cũng cháy theo
* Gia phả nhánh 2 - Bình Giang:
Do cụ Nguyễn Ngọc Cơ, ghi chép lại bản chính năm Thành Thái 8 (1903)
Cụ Tổ là Nguyền Văn Huề - Húy Cộ, Quê tại Thôn Chợ Cờ - Huyện Tứ Kỳ - Phủ Ninh Giang – Tỉnh Hải Dương.
Cụ là Sinh đồ triều Lê ( Sinh đồ thi hương cống đỗ 3 lần, thời phong kiến có thể bổ dụng quan tri phủ trở lên)
Cụ Cộ là con trưởng, nhưng cụ mang người con thứ của mình là Nguyễn Công húy Thành, di cư sang Đan Ấp, nay là Thôn Đan Loan, xã Nhân Quyền, huyện Bình Giang – Hải Dương, để lại người con trưởng ở lại duy trì thờ cúng dòng họ. Nói là di cư nhưng trong họ truyền tụng rằng cụ “ Chạy trốn” sang Bình Giang vì nạn “ Quan Triều” Thủy Tổ là Nguyễn Thái Bạt. Cụ sang Đan Ấp - Bình Giang – Hải Dương, nhưng không ở Đan Ấp mà đi dạy học lang thang khắp nơi, không ở cố định. Cụ Nguyễn Công Húy Thành, sinh ra cụ Nguyễn Đình Tam, Cụ Tam lại di cư lên xã Lồi Dương ( Thôn Sồi Cầu, xã Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương ngày nay) để sinh sống.
Cụ Nguyễn Văn Cộ là con của cụ Nguyễn Đắc Hoán, cụ để lại người con trưởng Nguyễn Công … ở quê duy trì dòng họ sinh ra chính là Ngành 1 ngày nay.
Gia phả Chi tộc Bình Giang, viết tính đến nay là 13 đời, cách viết tương đối đẩy đủ chi ở Đan Loan, còn chi trên Lỗi Dương ( Sồi Cầu ngày nay) đã viết đến cụ Nguyễn Đình Thời (Tức Nguyễn Văn Doan), là con trưởng khởi tổ chi trên Sồi Cầu, một số cụ khác không ghi, để chống thông tin, cụ Nguyễn Đình Lọ là con út, khởi tổ chi dưới Đan Loan. Gia phả trên Sồi Cầu + Đan Loan ghi đầy đủ cả các thế hệ. Việc ghép vào Tứ Kỳ, chờ khi dựng lên toàn bộ gia phả lên, sẽ có căn cứ khoa học.
Cho nên trong gia phả ngành 3 sao lại có viết: “Vì Trưởng chi không may gặp vận rủi ro; thật xót xa thay, nên chẳng biết làm thế nào, các chi họ chỉ ghi chép lại những điều truyền khẩu về tên thụy, tên hiệu, tự húy; thứ tự các đời trên dưới để thờ tự. Nay bản tộc mới bắt đầu họp nhau lại để viết gia phả,… ”
Trưởng chi ở đây là nói đến cụ Nguyễn Văn Cộ gặp nạn vận rủi ro.
- Chi Bình Giang, gia phả ghi chép sơ lược không chi tiết tỉ mỉ như một số gia phả khác, nhưng cũng có đủ cơ sở khoa học để, kết nối huyết mạch các đời theo thứ tự trên dưới đầy đủ.
b- Gia Phả Ngành 2 – Do nhà bị cháy gia phả cũng cháy theo
c- Gia Phả Ngành 3
- Chép lại bản chính ngày 22 tháng 8 năm Canh Ngọ, niêm đại Bảo Đại thứ 5 (1930)
- Người chép lại : Cụ Nguyễn Đắc Đệ - Ghi bằng chữ Nho.
Nguyễn Văn Hùng thuê Viện Nghiên cứu Hán Nôm dịch sang quốc ngữ để mọi người có thể xem được, gia phả ghi từ Tổ đời 1 đến Tổ đời 15 cụ thể :
Cụ Tổ đời 1: Nguyễn Quí Công ….( Nguyễn Thái Bạt) Là Nho sinh lúc đầu làm ở Tú Lâm Cục; - Cụ Bà Chu Thị …. Hiệu Ngọc Chiêu
(Tú Lâm Cục là một cơ quan Hành chính của triều đại phong kiến – Hàm Thất Phẩm, Cụ lúc đầu làm việc ở đó. Cụ bà Ngọc Chiêu, hiệu này vua ban chỉ những thân nhân của người có công mới được dùng hiệu theo tên vua, dân thường điều này là đại kỵ, tự đặt theo tên vua có thể sẽ gặp họa).
- Ghi đến Tổ đời 5: có viết “ Cụ Nguyễn Đắc Hoán thờ cúng các cụ từ đời thứ 5 trở lên” như vậy có thể hiểu cụ Nguyễn Đắc Hoán là con trưởng (Vì đây là gia phả ngành 3) do vậy cụ Hoán tối thiểu là đời thứ 6, cụ Hoán sẽ là khởi tổ Ngành 1, như vậy cụ Hoán là anh cụ Nguyễn Công … Tự Phúc Hiền tổ đời 6)
-Tổ đời 6: có ghi Cụ Nguyễn Công … Tự Phúc Hiền, sinh 2 con trai Tự Phúc Phú và Phúc Thọ, đồng thời ghi “ Cụ Nguyễn Đắc Cán thờ cúng các cụ từ đời thứ 7 trở lên, nhưng chỉ đến đời thứ 6, vì đời 5 cụ Đắc Hoán thờ cúng rồi. Như vậy Cụ Nguyễn Đắc Cán tối thiểu là đời thứ 8, cụ Nguyễn Đắc Cán là khởi tổ ngành 2, cụ là con cụ Phúc Phú, hoăc cụ Cán tương đương với đời con cụ Phúc Thọ là : Cụ Lý, Cụ Chuyên, Cụ Ngoạn …. Cụ Phúc Lý,
-Cụ Phúc Thọ Khởi tổ của ngành 3 - phát triển theo ngành 3, mà gia phả đã ghi đầy đủ, các ngành khác chỉ ghi đế cụ khởi tổ là dừng lại, vì các ngành có gia phả riêng.
Nếu những điều phân tích trên là đúng thì việc sắp xếp các nghành các đời sẽ không có gì đáng lo ngại ( Trong họ cần bàn bạc thống nhất, tìm ra quy tắc viết gia phả của người xưa)

II-GIA PHẢ CHI TỘC BÌNH PHIÊN – NGỌC LIÊN- CẨM GIÀNG
-Là nơi sinh của Cụ nhưng gia phả bắt đầu ghi từ đời cụ Cảo, từ Thanh Hóa về làng Bình Phiên ngày nay, thấy dân làng đang tế lễ Cụ Thủy Tổ, cụ đứng dưới gốc cây khóc, dân làng thấy lạ đến hỏi cụ kể lại đầu đuôi câu chuyện và trở lại quê, dân làng yêu mến cho nhập hương lấy lại dòng họ, gia phả viết được đến nay 10 đời.
- Chi tiết từ cụ Nguyễn Thái Bạt, không ghi được do gia phả cũ bị cháy mất, sau ngày cụ Nghi, đi đồn điền Giã Nam bỏ về nhớ được đến đâu ghi đến đó, lưu lại đến này nay.

III-GIA PHẢ CHI TỘC VĂN THAI – CẨM VĂN – CẨM GIÀNG

IV– NƠI THỜ TỰ:
Nơi thờ tự: Đức Thủy Tộc Nguyễn Thái Bạt, tạm thời đến nay ba nơi thờ tự:
A – Nơi thờ là các địa phương:
1- Đền Tiết Nghĩa Phúc Thần : Tại nơi sinh ra cụ Thôn Bình Phiên- Ngọc Liên –Huyện Cẩm Giàng- Tỉnh Hải Dương. Nghi lễ thờ cúng trong bản tục lệ Thôn Bình Lãng đã ghi rõ, Hội Làng 14 – 01 Là ngày nhà vua Lê Huyền Tông sắc phong thần Tiết Nghĩa, cho dân xây đền tiết nghĩa tế lễ như bách thần, Cụ Nguyễn Thái Bạt - Thụy Cương Trực
2- Đình làng Phan Xá- Xã Tống Phan- Huyện Phù Cừ - Tỉnh Hưng yên, nơi cụ Nguyễn Thái Bạt, mang tài đức, tri thức của mình giúp nhân dân trong làng, có kiến văn, biết lễ nghĩa, bằng cách cho dân tiền để xây nhà học, Cụ đã dạy học cho dân làng 4 năm, sau đó về triều đình dự thi đỗ Tiến sỹ - Là thủ khoa, khoa thi Canh Thìn năm 1520. Năm 1527 Mạc Đăng Dung, tiếm quyền giết vua cụ từ quan về quê, rồi trở lại Phan xá dạy học, Mạc Đăng Dung lên ngôi muốn trọng dụng người tài, ép vời cụ về kinh thành, cụ giả vờ mắt kém, tiến đến gần Mạc Đăng Dung, nhổ vào mặt chửi mắng ầm ĩ, rồi đập đầu xuống thềm điện tự vẫn.
Nhà vua sắc phong cụ Linh ứng đại Vương, đương cảnh Phúc thần chính vị thờ tế lễ tại đình làng Phan Xá.
Theo lệ cũ: Ngày sinh cụ 10 – 01 ca hát 3 ngày
Hội làng Phan Xá : ngày Ngài hóa 15 – 03
Lễ hội ngày nay tổ chức từ 10- 12/ 3 âm lịch hàng năm
3- Lăng Mộ của cụ tại Nguyễn Tộc - Tứ Kỳ Thượng:
Lấy ngày chuyển hài cốt của Cụ làm Ngày Giỗ, còn ghi trong gia phả, do Pháp sư và các sãi tiến hành cúng vào Ngày 20 - 08 hàng năm.Cụ Bà cúng 22-12

B – Nhà thờ trong dòng Ho:
IV– Phần mồ mả:
Mộ Cụ Đức Thủy Tộc Nguyễn Thái Bạt và cụ bà Chu Thị… Hiệu Ngọc Chiêu
An táng tại Đống Mả Đầu- Thôn Tứ Kỳ Thượng- Xã Ngọc Kỳ – Huyện Tứ Kỳ -
Tỉnh Hải- Dương.
Các mộ trong gia phả có ghi đương đối đầy đủ như gia phả ngành III, Gia phả Bình Giang, Gia phả Cẩm Giàng.
Nhưng thực tế các thế hệ sau nhiều đời bị thất lạc nấm mộ không còn do quá trình canh tác, thay đổi. Mộ các ngành các chi nhiều ngành còn giữ được mộ Cụ Tổ của ngành, nhưng nhiều ngành cũng bị mất,
còn chủ yếu từ 5-7 đời gần đây, do điều kiện kinh tế ngày càng khá giả, các ngôi mộ đã được xây quy tập thành khu theo các ngành các chi.

V- Một số từ ngữ cần hiểu, khi nghiên cứu gia phả:
1- Thế và Đại: Hai từ này đều có nghĩa là Đời, nhưng tùy từng vị trí mà có cách dùng khác nhau.
Ví dụ: Đệ nhất Đại hoặc Đệ nhất Thế : Đều có nghĩa là Đời thứ nhất.
Nhưng có chỗ dùng khác nhau tùy theo văn cảnh, để phù hợp.
Ví dụ: Ngôi mộ cụ Tam đại, Ngôi mộ cụ tứ đại. Không ai dùng ngôi mộ cụ Tam thế, tứ Thế, thường dùng từ một Thế hệ, chưa ai dùng một Đại hệ.
2-Hệ : ( Trong Gia Phả), là chỉ rõ về một đời nào đó. Của dòng Trưởng, đã sinh dưỡng được 2 người con Trai trở lên, từ đó họ phát triển cả về chiều dọc (Về đời) và chiều ngang ( về hàng); Các chi phái cũng hình thành từ đây. Nếu một đời nào đó cụ Tổ dòng trưởng sinh 10 người con, chỉ có 1 trai 9 con gái, thì Hệ cũng chưa phát sinh. Vì vậy Hệ có tác dụng xếp hàng của các chi phái trong họ.
3-Qui ước các đời
- Bố mẹ của Đức Thủy tộc gọi là : Thánh Phụ, Thánh Mẫu
- Cụ Đức Thủy Tổ trở xuống qui ước là đời thứ hai, rồi nối tiếp các đời thứ 3, thứ 4 … là hợp lý nhất. Khởi Tổ tách các ngành
các chi, có cụ Tổ các ngành, Tổ các chi
4-.Đặt tên các cụ Tổ khi còn sống và lúc đã mất:
- Theo điển cũ :
- Tên Húy : Lúc sinh ra lúc sinh ra cha mẹ đặt tên cho, nhưng nhiều trường hợp ngoài đời gọi chệch đi một cách rất phong phú. Ví dụ: Tiến gọi là Tớn, Cung gọi là Cong, Duyên gọi là Doan, Tế gọi là Táu; Long gọi là Lung. Vì vậy tên chính của mình là tên húy cũng bị mai mốt đi, chỉ căn cứ vào văn bản cũ mới xác định rõ. Nhiều trường hợp đi lấy chồng gọi theo tên Chồng, không gọi tên chính của mình.
-Tên Tự: Dùng lúc còn đi học, thời phong kiến, có điều kiện học tập là con nhà khá giả, và con quan lại, con dân thường ít được đi học, phần nhiều là thất học.
-Tên Hiệu: Là tên đặt lúc còn sống hoặc sau khi mất, tùy theo chức tước, học hàm, học vị mà đặt tên.
-Tên Thụy: Là người có công lao với triều đình cũ, với đất nước, khi mất Nhà vua ban tặng tên Thụy.
- Đạo Hiệu: Dành cho các nhà tu hành trước hiệu có chữ Pháp, ví dụ Pháp Bình, Pháp Huyền…
* Một số khó khăn, khi khảo cứu gia phả cũ, rất nhiều
Tên húy không ghi mà chỉ dùng dấu (…) chủ yếu ghi tên Tự hoặc Hiệu, mà hai tên này trùng nhau rất nhiều, nên nhiều khi rất khó phân biệt. Trong gia phả có các từ : Phúc, Thuần, Trực, Thanh, Tảo, đối với các cụ ông.
Còn các chữ: Từ, Diệu, đứng trước tên Hiệu các cụ Bà, được khái quát lại như sau:
a/ Đối với các cụ Ông:
Theo lệ cũ khi qua đời đã Thọ từ:
- 50 tuổi trở lên được ghi chữ Phúc trước tên
- 49-30 tuổi ghi được ghi chữ Thuần
- 29-18 tuổi được ghi chữ Trực.
- 17-13 tuổi được ghi chữ Thanh
- 13 tuổi trở xuống được ghi chữ Tảo
b/ Đối với các cụ Bà:
-Theo lệ cũ khi qua đời đã Thọ từ:
- 50 tuổi trở lên được ghi chữ Từ trước
- 49 trở xuống đến tuổi, đã lập gia đình ghi chữ Diệu
- Còn con gái ghi chữ Thanh
- Dưới 13 tuổi được ghi chữ Hoa
Đó là những khái quát chung tùy theo hoàn cảnh từng nhà, có thể đặt theo các Hiệu vị, theo các Mĩ tự dài ngắn khác nhau.
VI-Việc thờ phụng Tổ tiên:
- Theo điển cũ, việc thờ cúng Tổ tại gia, chỉ thờ từ 5 đời, trên 5 đời xếp bài vị lại, cất vào nơi, hàng năm vào dịp cuối tháng Chạp mới đưa ra lau chùi, đặt lên thờ, cúng lễ trong mấy ngày tết. Các bài vị đó gọi là “ Ngũ đại mai Thần chủ”.
Đời con thờ cha mẹ quá cố, là thờ Hiển khảo, hiển tỷ.
Đời cháu thờ ông bà, là thờ Tổ khảo, Tổ Tỷ.
Đời Chắt thờ cụ Ông, cụ Bà thờ Tằng tổ khảo, Tằng tổ tỉ.
Đời chút thờ kị, là Cao Tổ khảo, cao Tổ Tỉ.
Thế là đủ 5 đời, kể từ người được thờ cúng, đến cao Tổ khảo.
Thờ các đời cao hơn nữa thì sao? cùng nắm thêm 2 đời
Tức là : Cao Cao Cao tằng tổ khảo, còn hơn nữa gọi rất khó
Nhà thờ nơi thờ cúng Thủy tổ, và Khởi Tổ, vĩnh viễn không thay đổi.
*Vấn đề hợp tự tại nhà thờ:
- Hợp tự là gì ? Là rước vong linh các đời vào nhà thờ Đại tôn, hoặc nhà thờ Tiểu chi để thờ, gọi là hợp tự.
-Theo tục lệ cũ chỉ có ngành trưởng nối tiếp nhau, được thờ trong nhà thờ.
-Như vậy con cháu chắt của các cụ là con thứ lại phải xây nhà thờ, cứ như vậy số nhà thờ sẽ nhiều hơn cả nhà ở của dương trần. Do vậy từ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, phong trào Hợp tự ở các nhà thờ được tiến hành, bất kỳ dòng trưởng hay thứ, sau khi hết vòng tang, đều được rước linh vị đến nhà thờ, xếp đặt theo thế thứ, trên dưới, khi đến giỗ người nào đưa linh vị vào giữa, hết giỗ đưa ra vị trí cũ. Hợp tự như vậy là hợp với tâm linh, con cái dưới chân cha mẹ, cháu chắt về với tổ tiên.Tượng trưng cho sự đoàn tụ ở cõi âm, sau đó thuận tiện cho chung sức đồng lòng xây dựng nhà thờ, mua sắm Tế khí, quanh năm hương khói, gắn bó tình họ hàng, nhưng trên tinh thần tự nguyện không gò ép.

*Vấn đề bài vị cách viết:
- Khi lập bài vị chú ý bốn chữ “ Quỷ – Khốc – Linh – Thinh” tổng số chữ trong bài vị:
- Đối với nam giới vào chữ : Linh ( Tam Tòng);
-Đối nữ giới tổng số chữ vào chữ Thính ( Tứ đức).
-Với Nam giới tổng số chữ chia 4 dư 3 là được Ví dụ: 7; 11; 15; 19; 23; 27; 31; 35;39
- Với Nữ giới tổng số chữ chia 4 dư 0 là được Ví dụ: 8; 12 ; 16; 20; 24; 28; 32; 36; 40
- Ngày nay tên húy viết bằng chữ Nho mọi người không đọc được, tên hiệu, tên thụy, tên tự viết quốc ngữ, giờ ngày tháng năm sinh, giờ ngày tháng năm sinh mất.

VII- Việc dịch phả cũ, cách viết phả mới, tài liệu hán nôm
viết về Đức Thủy tộc Nguyễn Thái Bạt:
- Ngày nay người biết về hán tự rất ít, do nên các văn, bản viết bằng chữ hán, chữ nôm, phải dịch ra quốc ngữ thì mọi người có khả năng đọc được.
* Phần Gia Phả cũ:
- Gia phả cũ viết của ngành nào, tách riêng ngành, chi không có tổng thể cả dòng họ, và viết lúc đầu chưa tỉ mỉ. Tên của các cụ trước, một người rất nhiều tên, tên húy không được nhắc đến mấy, cho nên việc khảo cứu gặp nhiều khó khăn, khi khớp các thế hệ. Không may vì lý do bất khả kháng, ngành nào, chi nào bị mất gia phả, thì không thể nào khớp họ được, thật là đau buồn, cùng một họ, trong một làng do mất gia phả không thể nào xác định được, mình thuộc chi nào? ngành nào?
- Phần phả cũ vẫn giữ nguyên, các tên cánh đồng thời xưa, mặc dù ngày nay đã có biến động, vì các cánh đồng ấy đã có giá trị lịch sự lưu giữ phần mộ tổ tiên một thời gian.
- Giữ nguyên các thế, hướng mộ của các phần mộ theo phép địa lý cũ, nếu phả cũ có ghi.
*Phần Gia Phả mới:
Ghi chép trên nền phả cũ, về cơ bản giữ nguyên, có điều chỉnh cho rễ xem và giải thích thêm, phần giải thích đưa vào dấu ngoặc đơn để người đọc hiểu được cách viết của người xưa.
-Lần này tổng hợp tất cả các ngành các chi, thành một quyển gọi là “ Ngọc Phả Tộc Nguyễn Thái Bạt”
-Có để phần giấy trống, đủ viết cho ba đời tiếp theo,
Sau khoảng gần 100 năm tiến hành viết lại, ai là người viết hồi sau sẽ rõ, những thay đổi trong các ngành, các chi sau này tự viết.
- Cố giắng sắp xếp các đời các chi, nền là Gia phả Ngành III – Chi tộc Tứ Kỳ + Bình Giang – Hải Dương; vì chỉ có cuốn gia phả này còn ghi lại các đời từ cụ Nguyễn Thái Bạt, đến 15 đờì tiếp theo.
- Các ngành khác phiên sang theo các đời, càng làm rõ được thì đời sau, càng giảm bớt thời gian tìm kiếm.
*Tài liệu Hán nôm viết về Đức Thủy tộc Nguyễn Thái Bạt:
a/Tại Đình Thôn Phan Xá- Xã Tống Phan – Huyện Phù Cừ – Tỉnh Hưng Yên.
1-Bản thần tích Thành Hoàng Làng, viết về Lê Triều –Bảng nhãn; Bản phả đại vương triều vua Lê Chiêu Tông (1516-1520) bản chính Bộ lễ Quốc triều Lê.(Gồm chữ Hán đã dịch ra quốc ngữ)
2- Đạo Sắc Ngày 24 tháng 5 niên hiệu Tự Đức thứ 6- ( 1887)
3- Đạo Sắc Ngày 24 tháng 11 niên hiệu Tự Đức thứ 33- ( 1881)
4- Đạo Sắc Ngày mồng 1 tháng 7 niên hiệu Đồng Khánh thứ 2(1887)
5- Đạo Sắc Ngày 18 tháng 3 niên hiệu Khải Định ( 1917)
6- Đạo Sắc Ngày 25 tháng 7 niên hiệu Khải Định ( 1924)
b/Tại Đền Tiết nghĩa Phúc thần- Thôn Bình phiên-Xã Ngọc Liên – Huyện Cẩm giàng – Tỉnh Hưng dương.
* Đang lưu trữ tại Viện nghiên cứu Hán nôm- Hà nội
1-Ngự chế Tổng vịnh: của Vua Tự Đức quyển 5 ký hiệu VHv 1559/2 Bản khắc gỗ.
2-Toàn Lê Tiết Nghĩa Thục Lục: Ký hiệu A1444- trang 8- Mục Hậu Lê Công thần Tiết nghĩa.
3-Lê triều khiếu vinh thi tập: Ký hiệu A315 bản chép tay
4-Câu đối tại Đền Tiết nghĩa Phúc thần.
5-Thần sắc : ký hiệu AD.a6/3
A, Đạo sắc Ngày 8 tháng 8 niên hiệu Cảnh Hưng 28( 1767)
B. Đạo sắc Ngày 16 tháng 5 niên hiệu Cảnh Hưng 44 (1783)
C. Đạo sắc Ngày 22 tháng 3 niên hiệu Chiêu Thống 4 (1787)
6- Tục lệ : ký hiệu AF. A14/4 xã Bình lãng -Tổng Ngọc Trục – Huyện Cẩm Giàng – Tỉnh Hải Dương.

HỌ NGUYỄN THÁI BẠT CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
CHI TỘC TỨ KỲ+ BÌNH GIANG Độc lập- Tự do – Hạnh phúc


BIÊN BẢN HỌP HỌ NGUYỄN THÁI BẠT
Hôm nay ngày 15-05-2010 (ngày 02-04 AL)
Là ngày Ngọc đường- Hoàng đạo tại: Nhà trưởng tộc Nguyễn Văn Thành – Thôn Tứ Kỳ Thượng- Xã Ngọc Kỳ- Huyện Tứ Kỳ- Tỉnh Hải Dương.
Dòng Họ Nguyễn Thái Bạt tiến hành họp Họ:
Thành phần mời đến dự:
1-Ông Nguyễn Văn Giới : 81 Tuổi – Ngành 2
2-Ông Nguyễn Đắc Chiến: 62 Tuổi- Ngành 2
3-Ông Nguyễn Văn Đối : 79 Tuổi- Ngành 3
4-Ông Nguyễn Thanh Loãn: 76 Tuổi- Ngành 3
5-Ông Nguyễn Văn Bình : 74 Tuổi- Bình giang
6- Anh Nguyễn Văn Thành: 54 Tuổi- Ngành 1
7- Anh Nguyễn Văn Thông: 55 Tuổi- Ngành 2
8- Anh Nguyễn Ngọc Lâm : 50 Tuổi- Ngành 3
9- Anh Nguyễn Văn Hùng : 50 Tuổi - Bình giang - Thư ký
Nội dung
-Họp bàn lập lại Ngọc phả Dòng Họ Nguyễn, Đức Thuỷ tộc Nguyễn Thái Bạt- Lê Triều Bảng nhãn - Hàn lâm viện Thi Thư - Chánh lục phẩm, Khoa thi Canh thìn 1520. Sau thời gian bàn bạc trao đổi, mạn đàm, cuộc họp đi đến thống nhất nội dung như sau:
-Vì thời gian đã lâu, Gia phả các Chi các Ngành để lại không còn nhiều, do vậy việc sắp xếp, khảo cứu sẽ gặp nhiều khó khăn. Đức Thuỷ tộc trong hoàn cảnh lịch sử diễn biến Triều chính không thuận lợi. Nước yếu thì nhà yếu, do vậy con cháu hiện lưu lạc ở nơi đâu chúng ta không thể biết hết được.
1- Những Ngành, Chi có Gia phả cũ để lại, thuận lợi, sẽ viết tiếp, những Ngành, Chi không còn Gia phả để lại, chủ yếu lưu truyền bằng miệng cho các thế hệ sau, chúng ta sắp xếp từ dưới ngược lên trên theo thời gian, phần nào chưa rõ tạm thời để nguyên trạng, không ngộ nhận.
2- Gia phả Ngành 3 còn khá đầy đủ, lấy đó làm cơ sở để các Ngành các Chi khác theo, phiên sang các đời.
3-Các cháu Trai trong dòng Họ từ nay sinh ra xin Đức Thuỷ tộc cho được lấy tên đệm là Thái 泰 (Nghĩa là TÀI- TO LỚN) để trăm năm sau lấy lại Họ tên Đệm Của Đức Thuỷ Tổ.
Đối với nữ giới chỉ ghi tên chồng, tên các con quê chồng, con cháu nhà ai, các cháu ghi học hành đỗ đạt ra sao, là kết thúc, vì thế hệ sau mang họ khác.
4-Thời gian tiến hành cụ thể như sau:
-Tháng 5+6 các Chi các Ngành thu thập tài liệu, sắp xếp theo thứ tự của mình.
-Tháng 7 tiến hành tổng hợp cả dòng Họ khớp lại.
-Tháng 8 Lập được bản Nháp Ngọc Phả, kính báo với Đức Thuỷ tộc Nguyễn Thái Bạt vào 20-08-2010
-Các thành viên đến họp đều nhất trí, các nội dung trên, về triển khai cho các ngành các chi, thực hiện các biên bản cuộc họp.


Người ghi chép - Nguyễn Văn Hùng

HỌ NGUYỄN THÁI BẠT CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
CHI TỘC TỨ KỲ+ BÌNH GIANG Độc lập- Tự do – Hạnh phúc


BIÊN BẢN HỌP DÒNG HỌ TỘC NGUYỄN ĐỨC THUỶ TỘC NGUYỄN THÁI BẠT
Hôm nay ngày 14 – 08 - 2010 (ngày AL) tại nhà trưởng tộc
Nguyễn Văn Thành – Thôn Tứ kỳ thượng- xã Ngọc kỳ- Huyện Tứ kỳ- Tỉnh Hải dương. Dòng Họ Nguyễn Thái Bạt tiến hành họp Họ:
Thành phần mời đến dự:
- Vào hồi 08 giờ Thành phần:
1-Ông Nguyễn Văn Giới : 81 Tuổi -Ngành 2
2-Ông Nguyễn Thanh Loãn: 76 Tuổi- Ngành 3
3-Ông Nguyễn Văn Bình : 74 Tuổi- Bình giang
4- Anh Nguyễn Văn Thành: 54 Tuổi- Ngành 1
5- Anh Nguyễn Văn Thông: 55 Tuổi- Ngành 2
6- Anh Nguyễn Đắc Hương: 50 Tuổi- Ngành 3
7- Anh Nguyễn Văn Hùng : 50 Tuổi- Bình giang – Thư Ký
Nội dung
1-Trong bàn bạc một số nội dung cần thiết để lập Gia phả, nhưng thuận lợi căn cứ vào các gia phả gốc, vào các bản Thần tích, Thần sắc tìm thấy và truyền thuyết, các câu truyện, truyền khẩu, tương truyền trong dòng họ, là những tài liệu quý giá của Dòng Họ. Các ngành viết gia phả càng chi tiết được càng tốt, vì Gia phả chính là cuốn lịch sử của dòng Họ.
2- Trong Họ đi đến thống nhất chung Cụ Đức thuỷ tộc tên húy Nguyễn Thái Bạt – Thụy hiệu : Cương Trực, quê chính tại Thôn Bình phiên ( Bình Lãng)- Xã Ngọc Liên- Huyện Cẩm Giàng - Tỉnh Hải Dương hiện nay. Cụ sinh ngày 10 - 01- 1504 âm lịch năm Giáp Tý. 13 tuổi Cụ đỗ Hương Cống, 17 tuổi Cụ đỗ Thủ khoa - Tiến sĩ Hoàng Giáp khoa thi Canh Thìn năm 1520.
3- Tôn trọng và giữ nguyên quá khứ để lại các ngày tế lễ theo phong tục quy định của các vùng.
*Hiện nay tạm thời xác định ba nơi thờ cụ:
+Đền Tiết Nghĩa Phúc Thần; Tế lễ ngày 14 - 01 làng Bình Phiên – Xã Ngọc Liên- Huyện Cẩm Giàng – Tỉnh Hải Dương.
+Lăng Mộ Đức Thủy Tổ: Tộc Nguyễn Thôn Tứ Kỳ Thượng- Xã Ngọc Kỳ- Huyện Tứ Kỳ – Tỉnh Hải Dương .
* Giỗ 20 - 08 tục truyền ngày chuyển hài cốt các cụ về. Pháp sư, Sư vãi làm lễ cúng giỗ hàng năm theo lệ cũ cho các cụ, cụ bà 22-12
Gia phả ngành III còn ghi lại cả phần đất hương hỏa, dùng tế lễ cho hai cụ theo gia phả cũ
+Tế lễ Thành Hoàng Nguyễn Thái Bạt 10- 03 Lệ cũ (15-3) tại đình làng Phan Xá - Xã Tống Phan – Huyện Phù Cừ – Tỉnh Hưng Yên
Ba ngày này có ý nghĩa rất thiêng liêng của dòng họ cần gìn giữ duy trì cho mai sau.
Người ghi chép - Nguyễn Văn Hùng










Gia Phả NGUYỄN THÁI BẠT
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc NGUYỄN THÁI BẠT.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc NGUYỄN THÁI BẠT
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.