GIA

PHẢ

TỘC

PHAN
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
VIẾT VỀ THUỶ TỔ CỦA DÒNG HỌ
ÔNG TỔ PHAN NỔI
Ông tổ tên là Phan Nổi cùng em gái (không biết tên) gốc ở Gò Bồi, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định vào lập nghiệp tại ấp Đồng Bé nay gọi là thôn Long Bình, thị trấn La Hai, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
Ổng tổ Phan Nổi lấy vợ ở Đồng Bé tên là Hồ Thị Mọi tức là bà tổ của dòng họ Phan sau này. Bà thuộc họ Hồ Đây, Hồ Sỹ hiện nay. Ông bà tổ được cha mẹ vợ chia đất cất nhà, nay là Nhà Từ Đường của dòng họ Phan, ở liền nhà của ông Hồ Đây là mãnh đất làm ăn của ông Hồ Đây khá rộng ở trước nhà.
Em gái của ông tổ là bà cô tổ của con cháu họ Phan sau này – bà cô tổ lấy chồng phái họ Đinh Ông Thôn Kiều – bây giờ là bà tổ của họ Đinh. Nói đây là để con cháu của họ Phan, họ Đinh biết mức độ quan hệ của hai họ.
Ông bà tổ Phan Nổi sinh hạ được hai người con trai. Còn người con trai lớn tên là Phan Chánh. Còn người em trai của ông Phan Chánh không biết tên.
Ông Phan Chánh lấy vợ là bà Ung Thị Quỳ (bà Quỳ thứ 5) sinh được bao người con không rõ, chỉ biết còn 3 người là:
1. Phan Thứ (thứ 3 còn gọi là ông Thủ Ốc).
2. Phan Kiên (còn gọi là ông Tám Chử).
3. Phan Thị Điệp (còn gọi là bà Chín Thới).
Người em trai của ông Phan Chánh sinh được ông Tám Châu, ông Hai Dển, ông Sáu Cảng (cha của Phan Ngọc Sâm), ông Bảy Khi, ông Chín Dòm, ông Năm Hỡ, bà Mười, bà Đặng, bà Năm Tựng, ông Câu Nghề. Ông Câu Nghề để được 1 người con gái là bà Mạo (thường gọi là cô Năm Mạo). Bà mạo sinh được 1 con trai là Huỳnh Lệ đang sinh sống tại Nha Trang và 1 con gái là Huỳnh Thị Thông làm giáo viên sống với bà Mạo ở Xuân Quang.
Bà Ung Thị Quỳ có em gái gọi là bà Chính. Bà Chính sinh ra các con là : bà Nhào, ông Giáo Năm, ông Mười Đỗ - ông Mười Đỗ sinh ra ông Kia – ông Kia sinh ra bà Kia, bà Nè, ông Cược, ông Năm, ông Sáu Mơ. Ông thứ dư em trai bà Quỳ là ông Ung Gần sinh ra ông Ung Đấy (còn gọi là ông năm Đồn), ông Ung Hòa (còn gọi là ông Sáu Lịch), ông bảy Chinh. Ông Năm Đồn bị mù không lấy vợ. Ông Sáu Lịch mù đẻ ra bà Hai Lịch, bà Đề, ông Bốn Biên, ông năm bỉ, bà Sáu Rỏ, bà Bảy Ràng. Ông Bảy Chinh đẻ bà Hai Chỉnh (còn gọi là bà Ra), bà Ba Tiền đến 50 tuổi thì bị mù – do di truyền gien nên con cháu có nhiều người mù.
Dòng họ Ung gốc ở Đồng Me, xã An Định, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên.
Ông Phan Lưu Thanh sớm được giác ngộ cách mạng, vào Đảng Cộng sản tại trường lái xe Chu Văn Hai – Thị Nghè – Sài Gòn tháng 8 năm 1930. Sau được tổ chức Đảng phái về Phú Yên xây dựng cơ sở. Ngày 5-10-1930, ông đã tổ chức hội nghị toàn thể đảng viên tại nhà riêng và tại đây Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của tỉnh Phú Yên được ra đời để lãnh đạo phong trào cách mạng quần chúng đang được dấy lên mạnh mẽ trong khu vực. Đến tháng 1 năm 1931, Tỉnh ủy lâm thời của tỉnh Phú Yên được thành lập gồm có 5 người do ông Phan Lưu Thanh làm Bí thư Tỉnh ủy. Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, nước Việt Nam được độc lập – qua cuộc Tổng tuyển cử bầu quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa vào ngày 6/1/1946 ông Phan Lưu Thanh trở thành đại biểu Quốc hội các khóa 1, 2, 3 và 4. Khi về già ở với con trai là Phan Lưu Tuấn tại thành phố Nha Trang, hưởng thọ được 77 tuổi thì mất, được gia đình và Tỉnh ủy Phú Khánh đưa về chôn cất bên cạnh mộ cha là ông Phan Thứ.
Tiếp nối sự nghiệp của người đi trước, họ tộc cũng đã có nhiều người cống hiến sức lực, trí tuệ, xương máu góp phần với dân tộc: giải phóng, xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước Việt Nam thanh bình ngày nay.
Gia Phả PHAN
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc PHAN.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc PHAN
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.