Quốc gia có quốc sử
Dòng họ có gia phả là sách ghi chép lịch sử của dòng họ,ngõ hầu lưu lại mai sau cha truyềnn con nối mãi mãi dài lâu, đó là việc làm thuận theo đạo lý và lòng người , cũng là trách nhiệm cao cả của đương thời đối với tiền nhân và hậu thế.
Cây có gốc nước có nguồn , ngàn năm ghi tạc
Họ Trần đại tộc chúng ta ngày nay là hậu duệ Đức Hoàng tiên tổ Tả Thị Lang Trần Quý Công huý Bà Lâu thuỵ Chính Giác . Ngài là đích tôn Hoàng Thượng Tổ Trần triều sắc phong tiền ngự sử Trần Quý Công thuỵ Ngự Bốn thân phụ ngài là Hoàng thuỷ tổ thuỵ là Chính Nhạc .
Ngược dòng lịch sử tìm về gốc tích thì Đức Tổ là Hoài Đức Vương Trần Bà Liệt, em cùng cha khác mẹ với vua Trần Thái Tông huý tự là Trần Cảnh trị vì vào những năm Ât́ Dậu 1225-Mậu Ngọ 1258 niên hiệ̣u Kiến Trung thân phụ ngài là thái thượng hoàng Trần Thái Tổ huý tự là Trần Thừa.
Tổ tiên họ Trần có nguồn gốc tại xã An Sinh gần núi Yên Tử, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Sang thế kỷ 12 họ Trần An Sinh thiên cư đến lập ấp tại Tức Mạc, lộ Thiên Trường trấn Sơn Nam nay là xã Tức Mạc , huyện Mỹ Lộc , tỉnh Nam Định, gây dựng cơ nghiệp lớn cho con cháu. Thiên Lăng ở xã Thái Đường, huyện Hưng Nhân, tỉnh Thái Bình (sau này là nơi phát tích họ Trần). Đức Tổ thuộc dòng dõi Hoàng Thân quốc thích triều Trần, nắm quyền triều chính từ năm Ât́ Dậu 1225 đến năm Canh Thìn 1400 .
Một vương triều hưng thịnh nhât́, với chiến công oanh liệt chống giặc ngoại xâm mở mang bờ cõi, mở ra một kỷ nguyên độc lập tự chủ, vàng son văn hoá,suốt gần hai thế kỷ 12 và 13 mà hào khí Đông A còn vang vọng mãi mãi, làm vẻ vang giống nòi, rạng rỡ non sông đất nước .
Năm Kiến Tân thứ hai Kỷ Mão 1399 nhân vì chính biến Hồ Quý Ly, Đức Tổ cùng với hàng Tôn thất đại thần hội thề ở đất Sơn Đông nay thuộc xã Cao Mật, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá, mưu việc khôi phục lại triều chính. Việc lớn không thành, ngày 16 tháng 9 năm âý ngài cùng thân bằng quyến thuộc về Trấn Sơn Nam, âu cũng là trở về nơi phát tích vậy. Từ đó xuôi theo triền sông Hồng, dừng lại vùng châu thổ thời âý có tên là Hải Tân, thuộc phủ Thiên Trường trâń Sơn Nam Hạ, mộ lưu dân ,chọn đât́,lập nên âṕ Bồng Lai, khai phá một miền hoang sơ, trở thành đồng rộng bãi dài, đât́ đai phì nhiêu, thôn âṕ trù phú .
Đời này qua đời khác, con cháu mỗi ngày sinh sôi nảy nở đông đúc. Năm Lê Chính Hoà nhị niên Tân Dậu 1681 từ một âṕ Bồng Lai, được chia làm hai xã Bồng Tiên và Bồng Lai, thuộc huyện Giao Thủy, phủ Thiên Trường, trâń Sơn Nam .
Với những chiến công oanh liệt dẹp giặc yên dân mở mang bờ cõi , đến triều nhà Nguyễn năm Bảo Đại nguyên niên Bính Dần 1926 Đức Tổ được truy tặng săć phong :Trần Triều Tôn Thât́ , Dực Bảo Trung Hưng Khuông Phù Tôn Thần .
Tôn tộc dõi truyền, bia miệng công ơn khôn kể xiết
Anh hùng tuy khuât́ , mảnh gương sử sách vẫn còn truyền
Năm Canh Thìn 1820 triêù vua Minh Mệnh nhà Nguyễn , trâń Sơn Nam Hạ được đổi là trâń Nam Định, sau này là tỉnh Nam Định.Năm Canh Dần 1890 tỉnh Thái Bình được thành lập, các xã Bồng Tiên và Bồng Lai được chuyển về đơn vị hành chính thuộc tỉnh Thái Bình, xã Bồng Tiên thủa âý chính là tiền thân của xã Vũ Tiến ngày nay.
Dù bể dâu biêń đổi nhưng dâú cũ vẫn còn.Trong sách Dư địa chí sử gia Phan Huy Chú đã viêt́ :”Trâń Sơn Nam, huyện Giao Thuỷ là đât́ Thang Mộc nhà Trần” ,đât́ Thang Mộc có nghĩa là đât́ riêng của nhà Trần.Điêù naỳ cũng được minh chứng trong gia phả cuả làng như sau:
Tiên địa hữu danh, ư Sơn Nam biệt nhât́ nhai cảnh
Trần gia Tôn phái, tức Hải Tân lập vạn đại cơ
Có nghĩa là : Đât́ Bồng Tiên thuộc trâń Sơn Nam giàu đẹp có tiêńg , một chi phái nhà Trần đã chọn nơi này lập nên cơ nghiệp muôn đời cho con cháu.
Năm Lê Hy Tông thứ 17 Tân Mùi 1691 dân làng dựng đình Bồng Tiên, ngày âý Đình và Chùa có tên là Bồng Hồ Cảnh sau này đổi tên là Phúc Quang Tự, được xây dựng ở cùng một nơi, tọa lạc trên mảnh đât́ có tên là Lục Điạ Thần Tiên, ngày nay là thôn Lục Tiên. Đình là nơi phụng thờ các bậc tiên tổ có công khai sinh ra làng xã. Đình cũng là nơi thờ Thành Hoàng là tướng Yêt́ Kiêu, một gia tướng lừng danh của Đức Trần Hưng Đạo, ghi lại dâú âń khi ngài đem quân sĩ đi dẹp giặc Nguyên Mông năm Giáp Thân 1284 , đã đôǹ trú tại bản địa.
Năm Thành Thái thứ 8 Bính Thân 1896 được di chuyển xuôńg nền đình thuộc thôn Bát Tiên ngày nay, tuần tiết và các nghi thức lễ hội sức sôńg của một truyền thống tôt́ đẹp vẫn được duy trì .
Trải qua sáu trăm năm lịch sử, với ý thức tự lực tự cường,với bàn tay cần cù, tư duy sáng tạo, các bậc tiêǹ bôí đã mở mang đạo học trau dôì tri thức,khuyêń nông, khuyêń công, khuyêń thương nhăm̀ đáp ứng nhu câù vật chât́ dựng đình , chùa , thánh thât́ ,lăng miêú nhăm̀ thoả mãn đời sôńg tâm linh.Với ý chí quật cường ,bât́ khuât́ , lấy sức người san ghềnh ,lâṕ trũng,đăṕ đập, be bờ,vượt thổ,bôi cơ,chống chọi với thiên tai địch hoạ,đã taọ dựng nên khu vực định cư ổn định,làm thay da đổi thịt một miêǹ hoang sơ thủa sơ khai, trở thành miền quê giàu đẹp,một địa danh văn hóa độc đáo, làm nên tố chât́ của làng xã.
Trong hoàn cảnh lịch sử khi mà nền kinh tế thuần nông còn lạc hậu tự cung tự cấp. Những gì mà Tổ Tiên đã làm được cho sự phồn vinh giàu có của mảnh đât́ này, được lưu giữ đến ngay nay thật đáng trân trọng và tự hào
Nhiêù năm tháng qua đi, con cháu ngày một sinh sôi nảy nở, dần dần gây dựng được một dòng tộc lớn gôm̀ 30 chi.Sau do điêù kiện thực tế lúc bâý giờ năm Cảnh Hưng thứ 3 Nhâm Tuât́ 1742 từ 30 chi lại được chia ra các phái ,đại tộc ta được chia làm 6 phái(6 họ) mỗi họ từ 4 đêń 6 chi
Theo gia phả họ Trần Nguyên do cụ Tổng Uâń viêt́ năm Mậu Thìn 1928 thì Đức Thái Thuỷ Tổ của 6 họ là:
Thái Thuỷ Tổ Trần Quý Công thuỵ là Phúc Thương
Thái Thuỷ Tổ Trần Quý Công thuỵ là Phúc Tính
Thái Thuỷ Tổ Trần Quý Công thuỵ là Ngộ Thông
Thái Thuỷ Tổ Trần Quý Công thuỵ là Phúc Thiện
Thái Thuỷ Tổ Trần Quý Công thuỵ là Phúc An
Thái Thuỷ Tổ Trần Quý Công thuỵ là Phúc Lộc
Họ Trần Tôn Phái Đại Tộc của chúng ta gồm có 5 chi, bình sinh đến thời điểm này(Đinh Hợi 2007) là các thế hệ 8, 9, 10, 11, 12 và 13.Hậu duệ tôn Kế Sơ Tổ cao cao Tổ Trần Quý Công huý là Xuân Uyển thuỵ là Chân Lộc phủ quân.Ngài sinh năm Quý Dậu 1633 tạ thế năm Giáp Thân 1704 ,hưởng thọ 71 tuổi, phần mộ ngài được an táng tại cánh đồng Gồ Đa 7 đạc thứ 3.
Sinh thời Ngài có tư chât́ thông minh, lại được giáo dưỡng nghiêm cẩn từ một danh gia quyền quý. Năm 36 tuổi Ngài làm xã quan (sau naỳ đổi là Lý trưởng ) .
Đức Tổ cùng với bà Phạm Thị Thìn sinh hạ được 6 người con trai:
Con cả Trần Xuân Rỹ thuỵ là Liêm Chính
Con thứ hai là Trần Xuân Riệp thụy là Phúc Chi
Con thứ ba là Trần Xuân Mậu thụy là Văn Cẩm
Con thứ bốn là Trần Xuân Thảo thụy là Trọng Lệ
Con thứ năm là Trần Xuân Phương thụy là Huệ Minh
Con thứ sáu là Mãnh Tổ thụy là Huyền Chiêu
Từ năm cụ Cao Tổ về sau con cháu đã sinh ra đông đúc hình thành ra năm Cành Họ xếp theo thứ tự Giáp, Ât́ , Bính , Đinh , Mậ́u các Cành lại chia ra các Chi.
Năm Gia Long thứ tư Ât́ Sửu 1805 cụ Tổ Trần Xuân Kỷ thụy là Phúc Hải và các con của cụ là Trần Xuân Bồng, Trần Xuân Hoà, Trần Xuân Thuận, Trần Xuân Cương cùng với đa số đinh thuộc Nghành Cả , cảm mến giáo lý đạo Thiên Chúa nên đã tòng giáo.Trải qua nhiêù thế hệ , bộ phận con cháu theo đạo Thiên Chúa luôn găń bó với dòng tộc, chung lưng hoà hợp sôńg tôt́ đạo đẹp đời.
Năm Tự Đức thứ 35 Nhâm Ngọ 1882 Giáo dân xứ Bồng Tiên đã xây dựng nên ngôi Nhà Thờ, sớm hôm bà con chiêm lễ, nguyện cầu Thiên Chúa. Năm Thành Thái thứ 5 Quý Tỵ 1893 được nâng câṕ xây dựng thành ngôi nhà thờ với quy mô hiện đại .
Do hoàn cảnh lịch sử để lại, do điều khách quan, dòng tộc ta có người theo đạo Phật, có người theo đạo |