GIA

PHẢ

TỘC


QUỐC
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
VIẾT VỀ GIA SỬ CỦA DÒNG HỌ
Ông Tiền Hiền Khai Khẩn Thủy Tổ

LÊ QUỐC CHÁNH

Tước Ðô Tri Bình Chiêm

Sắc phong Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò Chi Thần

Sinh ngày mồng 2 tháng giêng năm Canh Dần - 1410

Mất ngày 20 tháng 12 năm Canh Tý - 1480 hưởng thọ 70 tuổi.

Mộ ông táng tại Gò Ðình xứ , Quảng Hóa Phú Châu, ngôi Tuất hướng Thìn.

Nguyên quán Phủ Thừa Tuyên Bắc Thành Nghệ An.

Ông là con của Khai Minh Vương Lê Quốc Quân, thuộc hệ 2 chi 7 hoàng tộc nhà Hậu Lê.

Ðời Lê Nhân Tông,vua nước Chiêm thành là Bí Cai thướng hay xua quân cướp phá vùng đất Hóa Châu, triều đình mở chiến dịch bình Chiêm để an định biên cương. Nhà vua chọn 8 tướng cầm đầu binh mã thuộc con cháu hoàng tộc họ Lê nội thành làm những chức vụ quan trọng cầm binh chinh phạt. Tám tướng lãnh chức Thống Soái 8 đạo binh phất cờ lãnh chỉ vào Nam, giờ Thìn ngày 16 tháng 3 năm Giáp Tý (1444).

Quân Ðại Việt phá tan quân Chiêm, đánh thẳng đến cửa Thị Nại, chiếm kinh đô Ðồ bàn của vương quốc Chiêm. Khi tiến sâu đến đất Cù Mông, quân Chiêm phản công dữ dội, quân ta không tiến được nên phải cấp báo về triều.

Nhà vua ban lệnh động binh và lệnh cho Hoàng gia đi đầu làm gương. Con cháu họ Lê trong 4 hệ 9 chi gồm tất cả 281 người, từ chức vụ Tổng binh, Cựu hậu, Tổng chức, Lãnh chức đương quyền, Lãnh tướng đương kiêm, Lãnh binh hiện dịch, Công hầu Khanh tướng , Quận công Ấm tử thuộc Lê gia Hoàng Tộc cùng với 20 vạn quân lên đường tăng viện vào ngày 16 tháng 6 năm Bính Dần (1446). Tất cả đoàn quân đặt dưới quyền điều khiển của Lê Thụ và Lê Khả.

Ông thủy tổ của chúng ta, tước Ðô tri bình Chiêm là một trong 281 vị tướng cầm quân vào Nam trong đợt này (số thứ tự của ông trong danh sách này là 146).

Quân ta thắng lớn, bắt được Chiêm vương là Bí Cai đem về Ðông kinh, lập vua Chiêm mới, giữ yên bờ cỏi và vẫn lấy núi Hải Vân làm ranh giới giữa hai nước như từ thời Thái tổ Cao hoàng đế Lê Lợi.

Tháng 8 năm Canh Dần -1470, Chiêm vương Trà Toàn đem 10 vạn quân đánh úp Hóa Châu. Tháng 10 năm 1470, Hồng đức nguyên niên, vua Lê Thánh Tông ban lệnh động binh, kén chọn được 26 vạn quân thủy bộ và truyền chiếu Bình Chiêm.

Ngày Canh thìn mồng 6 tháng 11 năm Canh Dần 1470 đội tiền phong do Chinh lỗ tướng quân Lân quận công Ðinh Liệt, Phó tướng Kỳ quận Công Lê Niệm đem 10 vạn thủy quân đi trước. Ngày Tân tỵ mồng 7 tháng 11 nhà vua tấu cáo ở Thái Miếu.? Ngày 16 tháng 11 nhà vua thân hành dẫn đại quân tiến tiếp sau. Ông thủy tổ chúng ta lại một lần nữa theo vua xuất chinh. Tả đô đốc Lê Hy Cát, hữu đô đốc Lê Cảnh Huy đem 1 vạn quân tiếp ứng theo sau.

Quân ta toàn thắng, và lại một lần nữa chiếm kinh đô Ðồ bàn, bắt sống Chiêm vương Trà Toàn, truy kích quân Chiêm đến tận đèo Cả.

Ngày 11 tháng 3 năm 1471 xa giá hồi loan.

Ngày mồng 1 tháng 6 năm Hồng đức nhị niên (1471), vua xuống chiếu lập Thừa tuyên Quảng Nam đạo gồm đất Ðồ bàn, Ðại chiêm và Cổ lũy, chia làm 3 phủ Thăng hoa, Tư nghĩa và Hoài nhơn. Phủ Thăng hoa gồm ba huyện là Lệ giang (Lê dương), Hi giang (Duy xuyên) và Hà đông (Tam kỳ, Tiên phước). Phủ Tư nghĩa gồm 3 huyện là? Bình sơn, Mộ hoa (Mộ đức) và Nghĩa giang (Tư nghĩa và Nghĩa Hành). Phủ Hoài nhơn gồm ba huyện là Bồng sơn , Phủ ty (Tuy phước ) và Tuy viễn (An nhơn), lấy núi Thạch bi ở cuối đất Phú yên gần đèo Cả làm ranh giới Chiêm Việt.

Bấy giờ đất đạo Quảng Nam còn rừng rậm hoang vu, nhà vua lệnh cho con cháu Hoàng tộc vào đây khai hoang lập ấp, tạo nên thế phên dậu cho triều đình. Con dân chư tộc phái khác cũng nhận chỉ vào Nam an cư lập nghiệp, theo quân đội trấn đồn, động vi binh, tịnh vi dân.

Ông thủy tổ chúng ta được vua sai phái ở lại trấn trị vùng bắc Ðại Chiêm (Chiêm Ðộng).

Ông khai khẩn 115 mẫu 7 sào lập bộ Quảng Hóa Phú Châu và quy dân lập ấp , cấp số đất đó cho dân.

Ông trở về Bắc tìm các giống bông, dâu, tằm đem vào giúp cho nhân dân tại đây khuếch trương tiểu công nghệ, dạy dân trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa trồng bông kéo sợi, dệt vải, xây dựng cuộc sống no đủ.

Ông khai khẩn riêng 10 mẫu 2 sào để lưu hạ cho con cháu đến ngày nay.





Bà Thủy Tổ

NGUYỄN THỊ PHÚC
Sinh ngày 10 tháng 2 năm Canh Tuất (1430)

Mất ngày 19 tháng 2 năm Bính dần (1506), hưởng thọ 76 tuổi. Mộ táng tại Trung Ðồng xứ , nội châu.

Quê quán của bà ở Tam Lư xã Thọ Xuân Phủ Thanh Hóa Tỉnh, là cháu nội của Ôn Vũ Hầu Nguyễn Chích.

Mộ song táng cùng ông, bên trái.

Gia Phả LÊ QUỐC
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc LÊ QUỐC.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc LÊ QUỐC
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.