Nước Văn Lang của người Lạc Việt trải dài từ Yên Bái xuống theo các lưu vực sông Hồng, sông Mã... Phía Tây Bắc là địa bàn Âu Việt của người Tày Thái cổ. Tuy cư dân Văn Lang chủ yếu là người Việt Mường nhưng cũng có bộ tộc người Tày Thái cổ bỏ nhà Thục theo về nhà Hùng.
Vào thời Hùng Vương chi thứ 18, đời Hùng Duệ Vương thứ I (theo Ngọc phả họ Ma thì Hùng Vương thứ 18 có 3 đời). Bộ tộc người Tày họ Ma ở chân núi Đọi Đèn huyện Cẩm Khê do Ma Khê là tộc trưởng đã triệu tập binh mã giúp Hùng Vương đánh thắng giặc giữ yên bờ cõi cho nước Văn Lang. Ma Khê được Hùng Duệ Vương phong chức “Đại tướng quân” trấn giữ phía tây thành Phong Châu. Đến đời Hùng Duệ Vương thứ II do tài đức và lập nhiều công lớn ông lại được vua phong “Phụ Quốc Ma Vương Đại Thần Đại Tướng Quân”. Rồi ông được triệu về kinh đô giúp vua trông coi triều chính, trị quốc an dân .
Ma Khê sinh một trai một gái. Con trai là Ma Xuân. Con gái gọi là nàng Huệ, Huệ Nương. Huệ Nương lấy Bảo Công là Lạc tướng đời Hùng Duệ Vương thứ III. Ma Xuân, con cả Ma Khê cũng là tướng nhà Hùng. Ma Xuân sang sông xây thành. Vì là thành của người Tày họ Ma nên gọi là Ma Thành. Tránh từ “Ma” trong tiếng việt nên Ma Thành gọi là Thành Mè. Nay thị xã Phú Thọ vẫn có dấu tích khu vực thành Mè và chợ Mè, bến Mè là bến sông do người họ Ma lập ra.
Hùng Duệ Vương thứ III, cuối thời Hùng Vương thứ 18 không có con trai, triều đình lại lung lay, bên ngoài thì Thục Phán nhòm ngó cướp ngôi bên trong thì rối loạn. Lạc Tướng Bảo Công con rể Ma Khê định củng cố thế lực đoạt ngôi vua. Nhưng một đêm ngủ tại Ma Thành cùng anh vợ có thần về báo mộng của trách nên từ bỏ ý định làm loạn.
Thục Phán cướp ngôi, sáp nhập Âu Việt với Lạc Việt thành nước Âu Lạc rời đô về Cổ Loa xây thành để giữ nước. Cha con Ma Khê, Ma Xuân, Bảo Công không hợp tác với nhà Thục trở về sinh sống ở đất Hoa Khê chân núi Đọi Đèn, nay thuộc các xã Tình Cương, Văn Khúc, Chương Xá, Cát Trù, Thạch Đê của huyện Cẩm khê. Vùng đất Cẩm Khê thời cổ đại làđịa bàn của người Tày họ Ma làm chủ. Khi Việt Nam được chia thành quận huyện thì được gọi là huyện Ma Khê, rồi Kim Khê, Hoa Khê để sau này thành huyện Cẩm Khê. Khê không chỉ có nghĩa đèo dốc mà còn Mang tên vị đại tộc trưởng người Tày đã có nhiều đóng góp cho nhà nước Văn Lang dưới thời Vua Hùng thứ 18.
Theo ngọc phả Ma tộc thì năm 246 Trước công nguyên Ma Xuân thay cha làm tộc trưởng họ Ma đã rời cả bộ tộc từ vùng núi Đọi Đèn sang Ma Thành để mở Mang điền ấp, sinh cơ lập nghiệp tại đất mới, nay là thị xã Phú Thọ.
Phú Thọ thời Hùng Vương là địa bàn cư trú xen kẽ giữa hai nhóm tộc người Việt Mường và Tày Thái cổ. Suốt thời cổ đại, trung đại, các nhóm Việt cổ tràn xuống khai khẩn vùng trung châu. Do tiếp biến văn hoá họ trở thành người Kinh. Về sau Phú Thọ thành nơi đất rộng người thưa mà vùng đồng bằng thì càng ngày càng đông người chật chội nên từng nhóm cư dân người kinh lại tràn lên sinh sống ở miền đất cổ này. Lâu dần người Kinh lại có số dân đa số, người bản địa vẫn bám trụ ở đây trở thành người thiểu số. Đến thời Lê, để phân biệt với các làng người Kinh, triều đình cho gọi các điểm cư trú của người thiểu số là động Man. Ta còn nhớ có các động Trúc Phê, Hưng Hoá. động Hoa Khê ở Cẩm Khê,động Phú An, thị xã Phú Thọ. Phú An động cũng do người Tày từ Hoa Khê đến nên Thị xã Phú Thọ cũng từng được gọi là Hoa Khê động. ở Tam Nông còn có động Khuất Lão (xã Văn Lang) và động Lăng Xương (Trung Nghĩa, Thanh Thuỷ)... Người thiểu số khi ấy có nhóm người Mường tách từ người Lạc Việt và người Tày tách từ nhóm Âu Việt. Các nhóm thiểu số ở vùng ngoài Phú Thọ lâu dần cũng do tiếp biến văn hoá mà thành người Kinh. Từ người Mường có các họ Đinh, Quách, Bạch, Hà, Bùi. Từ người Tày có các họ Ma, Mè, Mai. Mai, Mè đều do biến âm từ họ Ma mà thành. Theo nhà nghiên cứu văn hoá dân gian Nguyễn Khắc Xương thì ở huyện Thanh Ba gần đây vẫn còn những ngôi miếu Mường (miếu của người Mường khi xưa).
Về họ Ma người Tày thì còn để lại khá nhiều dấu ấn ở Đất Tổ bằng các truyền thuyết, thần tích, ngọc phả và hàng loạt di tích thờ cúng ở Cẩm Khê, Trù Mật, Phú An, Đền Hùng... Đoạn sông Hồng từ Yên Bái về Việt Trì do người Tày ở chính hai bên nên nó được Mang tên theo ngữ hệ Tày Thái là sông Thao do biến âm, gọi chệch từ Nậm Tao mà ra.
Họ Ma người Tày ở Phú Thọ nay hầu hết đều khai lý lịch là dân tộc Kinh. Rất ít người vẫn khai dân tộc Tày. Thậm chí trong một gia đình thì anh khai là người Kinh, các em khai là dân tộcTày. Điển hình như gia đình tộc trưởng Ma Ngọc Bảo Việt Trì, các em ông như ca sĩ Ma Thị Bích Việt vẫn khai lí lịch từ trước là ngưòi Tày. Ông Bảo và các con khai là người Kinh. Anh em họ mạc nhà ông hiện có rất đông là người Tày ở Lục Yên Châu, Tuần Quản (Yên Bái) và Đầm Hồng (Tuyên Quang).
Ông Ma Ngọc Bảo đời thứ 77 tính từ cụ tổ Ma Khê (thời Hùng Vương thứ 18) hiện là trưởng họ Ma. Vì thế ông được cha ông trao truyền cho giữ ngọc phả của Ma Tộc và phả hệ của dòng họ nhà mình.
Tính từ cụ Ma Khê đến nay đã có 79 đời, tức là cháu đích tôn của ông Ma Ngọc Bảo là Ma Tân Thành sinh năm 2005.
Cụ Ma Văn Thực bố ông Bảo (1917 - 2004) vừa theo Hán học, vừa theo Tây học nguyên phụ trách ngành tiểu thủ công nghiệp Vĩnh Phú, vì là con trưởng làm tộc trưởng nên được cha mình Ma Văn Thị (1878 - 1950) giao cho giữ tộc phả, gia phả và hàng năm lo giỗ chạp cúng tế tổ tiên. Vì có xuất sứ gia đình quý tộc nên các cụ luôn có ý thức gìn giữ ngọc phả Ma tộc và phả hệ các đời con cháu từ cụ Ma Khê xuống. Do chiến tranh các bản gốc bị huỷ hoại nhưng đời ông đời cha ông Ma Ngọc Bảo đã có công ghi chép lại, vì vậy ngày nay ông Bảo mới sao ra gửi cho các dòng họ Ma cùng tông tộc ở Phú Thọ, Yên Bái, Tuyên Quang... để họ nhớ về tiền nhân đặc biệt tự hào là tổ tiên có liên quan đến triều đại Hùng Vương thứ 18...
Họ Ma trải qua mấy ngàn năm, cũng trải qua nhiều thịnh suy bĩ thái. Đến đời tộc trưởng thứ 44 Ma Phúc Vinh cùng vợ là Nguyễn Thị Bích lại đưa gia nhân trở về sau loạn 12 xứ quân để tu sửa lại Ma Thành củng cố bộ tộc,lập từ đường thờ “MaTộc thần tướng Ma xuân Trường”. Còn các cụ tổ về trước thì tôn là thượng tổ và cao tổ vẫn thờ ở các đền miếu từ trước.
Vì dân tộc Tày họ Ma lớn, địa bàn trải rộng khắp nơi năm 1902 họ Ma phải chia nhỏ thành ba nhóm cho tiện bề sinh hoạt cúng tế tổ tiên.
MỌI CHI TIẾT XIN THAM KHẢO TRÊN TRANG PHUTHO.GOV.VN |