GIA

PHẢ

TỘC

Họ
Đặng
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
VIẾT VỀ GIA SỬ CỦA DÒNG HỌ
Đời 1: Thượng Thủy Tổ (Thiên tài võ tướng): Trần Tự An (938 - 1025) sinh ba con trai.

Đời 2: Trần Thông Mai (Đi tu), Trần Tự Mai (1012 - 1099), Trần Thanh Mai. Trần Tự mai sinh ba trai, một gái.

Đời 3: Vị Hoàng (1042 - 1123), Thiên Trường, Linh Cơ, Minh Thúy. Vị Hoàng Sinh một trai.

Đời 4: Trần Tự Quang (1073 - 1166), sinh một trai.

Đời 5: Trần Tự Kinh (1103 - 1190), sinh hai con trai.

Đời 6: Trần Tự Hấp (1132 - 1206), Trần Tự Duy. Trần Tự Hấp sinh Trần Lý.

Đời 7: Trần Lý (1151 - 1210) sinh hai trai, hai gái, Trần Thủ Huy (Hoằng Nghi).

Đời 8: Trần Thừa (1183 - 1234), Trần Tự Khánh, Trần Thị Dung, Trần Tam Nương, Trần An Quốc, Trần An Hạ, Trần An Bang (Tức Trần Thủ Độ) ngành thứ.
Trần Thừa sinh bốn trai, hai gái. Ngành thứ dòng cụ Trần Thủ Độ không lập tông đồ mà chỉ lập tổng đồ ngành trưởng.

Đời 9: Trần Liễu (1200 - 1241), Trần Cảnh, Trần Hao, Trần Bá Liệt, Thụy bà (gái), Thiên Thành (gái). Trần Liễu sinh bốn trai, một gái.

Đời 10: Trần Quốc Doãn, Trần Quốc Tuấn (1226 - 1300), Trần Tuệ Trung, Trần Quốc Khang, Thiên Cảm (gái). Trần Quốc Tuấn sinh sáu trai, một gái và một trai, một gái nuôi.

Đời 11: Trần Đạo Tái, Trần Quốc, Trần QuốcTảng, Trần Quốc Nghĩa, Trần Quốc Uất, Trần Hưng Hồng Hiến, Trần Thị Trinh, Con nuôi: Trần Quốc Toản, Hoàng Đại Thủy Tiên. Trần QuốcTảng sinh năm con trai.

Đời 12: Con trưởng Trần Quốc Anh sinh bảy con trai.

Đời 13: Con thứ hai Trần Quốc Kiệt sinh hai con trai.

Đời 14: Con trưởng: Trần Văn Huy (1410 - 1485) hiệu Đặng Hiên.
Con thứ là Trần Hiện (Cụ Nguyễn Vũ Duệ lão thành cách mạng là hậu duệ đời thứ tư, giữ qũy lợi tức của quan Thượng Bộ tức cụ Húy vì chánh húy. Ruộng để lại cho dân làng Quang Bị nay là xã Thạch Đồng huyện Thanh Thủy tỉnh Phú Thọ). Tiền lợi tức đó để hàng năm xuân thu nhị kỳ 20 tháng giêng và 20 tháng tám dân làng tế lễ (Tế lễ Thân Mẫu) không phải đóng góp. Sinh sáu trai, hai gái (gái lớn Hoàng Hậu), song thực ghi trong gia phả có ba người con, gần đây tìm được hai người con gái còn (thất truyền).

Đời 15: Trần Cẩn, Trần Du, Trần Lâm, gái: Trần Thị Tùng (Hoàng hậu: Trần Thị Trúc).
Năm 1511 con cụ Trần Cẩn là Trần Tuân - Thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa bị thất bại. Con cháu cụ Huy, lấy tên hiệu của cha là Đặng Hiên đổi từ họ Trần qua họ Đặng để tránh họa chu di tam tộc và đi lập nghiệp các nơi.
Cụ Trần Cẩn đổi là Đặng Công Cẩn, cụ Trần Du đổi là Đặng Công Du, cụ Trần Lâm đổi là Đặng Trần Lâm (sinh Đặng Bơi).

Đời 16: Đặng Bơi sinh ra Đặng Chí.

Đời 17: Đặng Chí sinh ra Đặng Điện.

Đời 18: Đặng Điện sinh ra hai con trai.

Đời 19: Đặng Toàn (mất sớm), Đặng Huấn (sinh hai trai, mười một gái).

Đời 20: Đặng Thế Kỵ, Đặng Tiến Vinh (sinh tám trai, hai gái).

Đời 21: Đặng Thế Sức, Đặng Thế Khoa, Đặng Thị Ngọc Phúc, Đặng Thế Tông, Đặng Tiến Năng, Đặng Thế Tài, Đặng Thế Khanh (sinh mười sáu trai, bốn gái), Đặng Thị Xuân Dung, Đặng Thế Thiệm, Đặng Tiến Long (mất sớm).

Đời 22: Đặng Thế Luân, Đặng Thế Lãng, Đặng Thế Minh, Đặng Thế Hoàng, Đặng Chinh Pháp (sinh ba con trai), Đặng Đình Khang, Đặng Tiến Thiện, Đặng Tiến Mỹ, Đặng Thế Công, Đặng Thế Huân, Đặng Thế Phượng, Đặng Thế Hùng, Đặng Đình Hiền, Đặng Tiến Nho, Đặng Tiến Phước, Đặng Tiến Kế, gái: Đặng Thị Du, Đặng Thị Ngọc Tụy, Đặng Thị Chính, Đặng Thị Yên.

Đời 23: Đặng Nhật Lang tự Phúc Lâm, Đặng Nhị Lang tự Kỳ Lão, Đặng Tam Lang tự Phúc Huệ (sinh một con trai).

Đời 24: Đặng Phức Tinh (sinh ba trai năm gái).

Đời 25: Đặng Phúc Nhu (sinh bốn con trai), Đặng Phúc Quy (mất sớm), Đặng Phúc Hào và năm con gái.

Đời 26: Đặng Phúc Thảng (sinh năm con trai), Đặng Trọng Lễ, Đặng Đinh Kiều, Đặng Phúc Hãn.

Đời 27: Đặng Bá Thư (sinh năm con trai), Đặng Trọng Yến, Đặng Trọng Ân, Đặng Trọng Trứ, Đặng Trọng Ngũ và ba con gái.

Đời 28: Đặng Kim Sách (đỗ tú tài 4 khoa làm quan Huấn Đạo, sinh bốn trai, một gái), Đặng Viết Tích, Đặng Việt Giản, Đặng Văn Bút, Đặng Kim Toán và hai con gái.

Đời 29: Đặng Triều Tiên, Đặng Kim Phạm, Đặng Viết Cơ, Đặng Viết Trâm, và một gái.
Gia phả cụ Đặng Xuân Bảng viết cụ Đặng Triều Tiên mất sớm. Thật ra cụ chạy ẩn lên Tứ Mỹ - Tam Nông - Phú Thọ, do sắc chỉ của Trịnh Khải.
Năm 1782 chúa Trịnh Sâm ốm nặng qua đời, Trịnh Khải là con bà Thái Hậu, đã trưởng thành nhưng không lập chúa, mà cho lập Trịnh Cán con bà Thái phi Đặng Thị Huệ. Năm 1783, Trịnh Khải cùng quân Tam Phủ giết Thượng Thư Hoàng Đình Bảo, cướp ngôi Trịnh Cán (lúc đó ba tuổi, có sách nói năm tuổi), lập tức ra sắc chỉ: Truy tận gốc họ Đặng để trừ hậu họa. Đây là lí do cụ Đặng Triều Tiên chạy ẩn lên Tứ Mỹ - Tam Nông - Phú Thọ. Chi họ Tứ Mỹ lập tông đồ từ đây.


































Gia Phả Họ Đặng
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc Họ Đặng.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc Họ Đặng
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.