DUỆ TÔNG HIẾU ĐỊNH HOÀNG ĐẾ HÚY NGUYỄN PHÚC THUẦN
(ĐỊNH VƯƠNG)
(1754 - 1777)
Hệ X
10.1. - THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP
Duệ Tông Hiếu Định Hoàng Đế húy là Nguyễn Phúc Thuần (còn có tên là Hân), con thứ 16 của Thế Tông Hiếu Vũ Hoàng Đế Nguyễn Phúc Khoát và Huệ Tĩnh Thánh Mẫu Nguyễn Sư Nguyễn Phúc Ngọc Cầu. Ngài sinh ngày 18 tháng 11 năm Giáp tuất (31-12-1754).
Đương thời, đức Hiếu Vũ đã lập con trai duy nhất cùa chính phi là Nguyễn Phúc Hão (Hoàng tử thứ 9) làm Thế tử. Thế tử mất sớm, Hoàng tử thứ nhất Nguyễn Phúc Chương cũng mất sớm nên đức Hiếu Vũ chuẩn bị để lập Hoàng tử thứ hai Nguyễn Phúc Côn (Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng Đế) lên làm Thế tử. Nhưng khi đức Hiếu Vũ băng, quyền thần Trương Phúc Loan đổi di chiếu, phế đế Hoàng tử Côn bắt bỏ ngục và lập Hoàng tử thứ 16 là Nguyễn Phúc Thuần, mới 12 tuổi, lên ngôi xưng hiệu là Định Vương, đạo hiệu là Khánh Phụ đạo nhân.
Lên ngôi, ngài phong cho Trương Phúc Loan là Quốc phó nên mọi quyền hành đều ở trong tay Loan. Con trai Loan thì lấy Công chúa, con gái thì gả cho Hoàng tử nên quyền lực trong Hoàng triều tập trung cả và0 gia đình họ Trương. Từ đó gây nên mầm mống loạn lạc : buôn quan bán tước, sưu cao, thuế nặng, lòng người oán hận. Loan đấu thầu nguồn rừng Nam Ngãi, thu thuế nguồn vàng Thu Bồn, v.v... Hàng năm nguồn lợi trưng thu được vọt số mà chỉ nộp cho nhà nước một phần, của cải chất đầy như núi đến nỗi có lần gặp lụt vàng bạc, châu báu đem phơi sáng rực cả sân.
Năm Quí tỵ (1773), quân Tây Sơn nổi binh chiếm Qui Nhơn, dựng cờ "Phù Nguyễn, diệt Trương". Ba anh em Hồ Nhạc, Hồ Huệ va Hồ Lữ đổi thành họ Nguyễn, tôn phù Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương (con Thế tử Nguyễn Phúc Hạo), nêu tội ác của Trương Phúc Loan để thu phục nhân tâm.
Năm Giáp ngọ (1774), quân Trịnh nhân cơ hội miềnNam rối ren, đem quân vào đánh, lấy danh nghĩa "vì thân thích nhiều đời với Chúa Nguyễn nên đem quân vào giúp Chúa Nguyễn, diệt trừ Trương Phúc Loan". Nhân tâm ly tán, Phú Xuân thất thủ, ngài phải chạy vào Quảng Nam và lập Hoàng tôn Dương Làm Thế tử. Quảng Nam có nguy cơ mất, ngài cùng Hoàng tôn Nguyễn Phúc Anh (tức là vua Gia Long) và xa giá đi thuyển vào Gia Định để Thế tử ở lại cố thủ.
Nguyễn Nhạc bắt được Thế tử, đưa về Hội An rồi gả con gái là Thọ Hương cho để thu phục lòng dân. Nhiều lần Nhạc yêu cầu Thế tử lên ngôi nhưng Thế tử không chấp thuận.
Năm Bính thân (1776) đức Duệ Tông vào đến Gia Định, Mạc Thiên Tứ đem các con đến hành tại (ở Bến Nghé) để bái yết. Ngài phong cho Thiên Tứ làm Đô đốc Quận công và truyền đem quân về đạo Trấn Giang đóng giữ. Cuối năm đó, Thế tử làm trốn được cùng với Nguyễn Phúc Xuân vượt biển vào Nam. Lúc này Đỗ Thanh Nhân đã đánh lui quân Tây Sơn chiếm lại Sài Gòn. Vua Chân Lạp là Nặc Vinh thấy Gia Định rối ren, không nạp cống nữa. Ngài sai Chưởng sứ Nguyễn Phúa Ánh đi đánh Chân Lạp, Nặc Vinh xin hàng, thế lực của Chúa Nguyễn lại được củng cố.
Tháng 11 năm Bính thân (1776), do áp lực của các tướng thuộc hạ của Đông cung, ngài nhường ngôi cho Thế tử. Thế tử (Hoàng tôn Dương) lên ngôi xưng hiệu là Tân Chính Vương, tôn ngài làm Thái thượng hoàng.
Năm Đinh dậu (1777) Nguyễn Huệ vào đánh chiếm Sài Gòn ngài chạy xuống Định Tường, rồi đến Cần Thơ. Ngày 17 tháng 8 năm Đinh dậu (18-9-1777) Tân Chính Vương và 18 quan theo hầu đều bị hại. Ngài về Long Xuyên, quân Tây Sơn đánh chiếm Long Xuyên. Ngày 18 tháng 9 năm Đinh dậu (18-10-1777) ngài cùng các tướng bị Tây Sơn bắt và bi hại. Ngài mất lúc 24 tuổi, ở ngôi 12 năm.
* * *
Đức Duệ Tông Híếu Định Hoàng Đế là vị Chúa Nguyễn thứ chín trị vì ở miền Nam.
Khi lên ngôi ngài còn quá nhỏ tuổi, mọi quyền hành ở trong tay Trương Phúc Loan. Trong thời Loan làm Quốc phó, về mặt võ bị không được củng bố, về quan lại thì tệ nạn mua quan, bán tước làm mọi người chán nản, ít có người tài ra giúp nước. Vả lại nhân tâm li tán nên khi có biến không thể chống được và cơ đồ phải rơi vào tay người khác. Tuy nhiên, lòng người còn tưởng nhớ đến công lao xây dựng miền Nam của các vị Chúa đời trước và đây là nền tảng vững chắc giúp cho Thế Tổ Cao Hoàng Đế xây dựng lại cơ đồ to lớn và rực rỡ hơn xưa.
Ngài thuộc đời thứ mười của họ Nguyễn Phúc và vì không có con trai nên không khai sáng ra hệ mới.
10.2. - LĂNG, MIẾU THỜ VÀ CÁC TƯỚC HIỆU ĐƯỢC TRUY TÔN
Ngài mất, ban đầu an táng tại huyện Bình Dương tỉnh Gia Định. Năm Kỷ tỵ (1809), vua Gia Long cho cải táng về làng La Khê (Hương Trà, Thừa Thiên) và đặt tên lăng là Trường Thiệu. Ngài được thời tại Thái Miếu, án thứ tư bên hữu.
Khi đức Thế Tổ mới nhiếp chính, ngài được truy tôn : "Thông Minh Khoan Hậu Anh Mẫn Huệ Hòa Hiếu Định Vương". Đến năm Bính dần (1806), ngài được truy tôn : "Thông Minh Khoan Hậu Anh Mẫn Huệ Hòa Hiếu Định Hoàng Đế", miếu hiệu là Duệ Tông.
10.3 - GIA ĐÌNH
10.3.1. Hậu và phi
10.3.1.1 Nguyễn Thị Châu Chính phi
Bà húy là Nguyễn Thị Châu, người huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Bà là con của Quận công Nguyễn Cửu Sách. Tiểu sử không rõ.
Bà mất ở Gia Định trong thời kỳ ly loạn, không biết mộ táng ở đâu.
Bà sinh được mộ Hoàng tử là Nguyễn Phúc Ngọc Thục.
10.3.2. Hoàng tử và Hoàng nữ
Đức Duệ Tông chỉ có một Hoàng nữ là Nguyễn Phúc Ngọc Thục.
10.3.3 Anh chị em Ngài có 17 anh em và 12 chị em gái
10.3.3.1A. Nguyễn Phúc Chương Thành Công
Ông là con trưởng đức Thế Tông, còn có tên là Trà. Mẹ là Hoàng Hậu Trương Thị Dung. Ông sinh ngày mồng 2 tháng 4 năm Nhâm tý (26-4-1732). Tiểu sử không rõ.
Ông mất ngày 27 tháng11 năm Quí mùi (31-12-1763), hưởng dương 32 tuổi. Lăng táng tại làng Dương Xuân (Hương Trà, Thừa Thiên). Vua Gia Long truy phong tước "Thành Công", thụy là Cương Chính. Ông được thờ ở Triển Thân Từ.
Ông không có con trai, chỉ có một người con gái (không rõ tên).
10.3.3.2A. Nguyễn Phúc Côn Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng Đế
10.3.3.3A. Nguyễn Phúc Mão Nội tả Chưởng dinh
Ông là con thứ ba của đức Thế Tông, còn có tên là Văn. Mẹ là bà Nguyễn Thị Khoa. Ông sinh ngày 20 tháng giêng năm Giáp dần (23-2-1734).
Ông làm quan chức Nội tả bộ cơ Chưởng dinh. Năm Quí tỵ (1773), Trương Phúc Loan tiếm quyền, tôn thất và đại thần đều oán ghét. Quan Hàn lâm Ngô Đình Thứ và Tri phủ Trần Giai Đạo được giao ngụy tạo thư của Loan thông đồng với Tây Sơn (dùng ấn của Loan đóng vào), rồi cho vất giữa đường. tham mưu Tá (thiếu họ) lượm được thư, báo với ông. Ông tâu với đức Thế Tông xin bỏ ngục Loan. Loan hết sức biện bạch, bảo là bị vu cáo nên khỏi tội. Loan lấy chuyện này mà oán ông, giả làm thư của dịch khuyên ông theo địch, rồi cho người tố cáo ông làn phản, ra lệnh xét trị tội. Ông sợ phải bỏ trốn. Loan sai cai đội Hương đuổi theo bắt, đem dìm xuống phá Tam Giang, mọi người đều thương tiếc. Ông mất lúc 41 tuổi. Về sau, vua Gia Long xét ông có công từng làm A bảo nên cấp cho con cháu 30 mẫu tự điền. Lăng táng tại làng Cư Chánh, Thừa Thiên, nhà thờ ở làng Long hồ (Thừa Thiên).
Ông có một người con tên là Nguyễn Phúc Liêm (còn có tên là Đồng), làm quan đến Cai đội. (Khi mất được truy tặng là Tráng Võ Công thần Phụ Quốc Võ Liệt Tướng Quân Cai Cơ.)
10.3.3.4A. Nguyễn Phúc Cường Thành Quận công
Ông là con thứ tư của đức Thế Tông, còn có tên là Thành, không rõ tên họ mẹ. Ông sinh ngày 12 tháng 3 năm Ất mão (4-4-1735).
Ông làm quan chức Tiết chế Thủy bộ Thành Quận công. Năm Giáp ngọ (1774),khi quân Trịnh đến Hồ Xá, ông với Nguyễn Cửu Pháp bắt Trương Phúc Loan giap cho Hoàng Ngũ Phúc. Năm Ất mùi (1775), ông hộ giá đức Duệ Tông đến Quảng Nam. Sau đó đức Duệ Tông vào Gia Định, ông bị bệnh không đi theo được phải ở lại Quảng Nam và mất ở đó, lúc 41 tuổi.
Ông có 5 người con trai : Nguyễn Phúc Chiêu, Nguyễn Phúc Quí, Nguyễn Phúc Đàm, Nguyễn Phúc Hoảng và Nguyễn Phúc Diệu
10.3.3.5A. Nguyễn Phúc Dực Ý Công
Ông là con thứ năm của đức Vũ Vương, còn có tên là Bửu, mẹ là Hoàng Hậu Trương Thị Dung. Ông sinh ngày 16 tháng 8 năm Ất mão (1-10-1735), tiểu sử không rõ.
Ông mất ngày 22 tháng giêng, không rõ năm, được phong tặng Cẩm Y Vệ Đô chỉ huy ty Đô chỉ huy sứ,thụy là Chính Trực. Vua Gia Long cấp 15 mẫu tự điền, truy tặng là Ý Công, thờ ở Triển Thân Từ.
Ông có 3 người con là : Nguyễn Phúc Dân, Nguyễn Phúc Huy và Nguyễn Phúc Hiệp.
10.3.3.6A. Nguyễn Phúc Chất Thiếu Phó
Ông là con thứ sáu của đức Vũ Vương, không rõ bà mẹ. Ông sinh ngày 14 tháng 4 năm Đinh tỵ (13-5-1737).
Ông làm quan chức Bộ binh Tiết chế. Năm Giáp ngọ (1774), quân Trịnh vây hãm đồn Lương Phúc, ông chống cự không lại. Năm Ất mùi (1775), ông hộ giá đức Duệ Tông đến Quảng Nam rồi ở lại đây giúp Đông sung Hoàng tôn Dương. Năm Bính thân (1776) ông vào Gia Định, được thăng lên Thiếu phó. Năm Đinh dậu (1777), ông theo phò Tân Chính Vương.
Ông bị bệnh, mất ngày 10 tháng 6 năm Đinh dậu (14-7-1777). Lăng táng tại làng Dương Xuân, Hương Thủy, Thừa Thiên. Nhà thờ ở tại làng Dương Xuân.
Ông có 2 người con là : Nguyễn Phúc Viện và Nguyễn Phúc Trường.
10.3.3.7A. Nguyễn Phúc Kính Chưởng dinh Quận công
Ông là con thứ bảy của đức Vũ Vương, mẹ là Chiêu Nghi phu nhân Trần Thị Xạ. Ông sinh ngày 22 tháng 9 năm Đinh tỵ (15-10-1737).
Ban đầu ông làm quan chức Hậu dực cơ Cai đội. Năm Giáp ngọ (1774) Duệ Tông Hoàng Đế duyệt binh ở cửa Tư Dung (nay là cửa Tư Hiền) thăng ông làm Chưởng dinh Quận công, quyền Giám quốc. Năm Ất mùi (175) ông theo đức Duệ Tông vào Nam bằng đường thủy, đến Gia Định, gió lật thuyền, ông bị chết chìm.
Ông mất ngày 19 tháng 2 năm Ất mùi (20-3-1775) lúc 38 tuổi. Lăng táng tại làng Dương Xuân (Hương Thủy, Thừa Thiên) theo lối chiêu hồn nhập môn.
Ông có 3 người con là : Nguyễn Phúc Tĩnh, Nguyễn Phúc Tuyền và Nguyễn Phúc Đạo.
10.3.3.8A. Nguyễn Phúc Ban
Ông là con thứ tám của đức Vũ Vương (còn có tên là Quy), mẹ là Chiêu Nghi phu nhân Trần Thị Xạ. Ông sinh ngày 17 tháng 4 năm Kỷ mùi (24-5-1739). Tiểu sử không rõ.
Ông mất ngày 10 tháng 11 Âm lịch (năm mất không rõ). Lăng táng tại làng Nguyệt Biều (Hương Thủy, Thừa Thiên). Không rõ nơi thờ tự.
Ông có một người con là : Nguyễn Phúc Sóc và một người con gái (không rõ tên).
10.3.3.9A. Nguyễn Phúc Hạo Hiếu Tuyên Vương
Ông là con thứ chín của đức Vũ Vương, mẹ là Hữu Cung tần Trương Thị Hoàng. Ông sinh ngày 27 tháng 11 năm Kỷ mùi (27-12-1739).
Ban đầu, ông được lập làm Thế tử. Nhân ngày đản của đức Vũ Vương, các tôn thất và văn võ bá quan đem châu ngọc, gấm vóc dâng lên, riêng Thế tử chỉ dâng độc nhất một mâm lúa. Đức Vũ Vương lấy làm lạ, hỏi ông thì ông tâu : "Lúa là gốc để nuôi lấy sự sông nên con xem quí hơn ngọc châu vì thế đem dâng." Đức Vũ Vương lấy làm khen.
Ông mất ngày 18 tháng 2 năm Canh thìn (4-4-1760) lúc 22 tuổi. Đức Vũ Vương thương xót vô cùng, phong tặng là Thái bảo Quận công, an táng tại làng Long Hồ (Hương Trà, Thừa Thiên) ra lệnh cấm việc xướng ca trong 100 ngày. Đến thời kỳ trung hưng, ông được phong thụy là "Hiếu Tuyên Vương", thờ ở án thứ 5 tại Thái Miếu ở Gia Định. Năm Nhâm tí (1804) vua Gia Long cải thụy là "Duệ Tiềt Ôn Lương Anh Duệ Minh Đạt Tuyên Vương", cho dựng nhà thờ ở Long Hồ để thờ.
Ông có một người con là Hoàng Tôn Dương (sau này là đức Duệ Tông chọn làm Thế tử rồi nhường ngôi cho, xưng hiệu là Tân Chính Vương).
10.3.3.10A. Nguyễn Phúc An Cai cơ
Ông là con thứ 10 của đức Vũ Vương (còn có tên là Vương Chiêu) mẹ là bà Đặng Thị Trúc. Ông sinh ngày 9 tháng 6 năm Canh thân (2-8-1740). Tiểu sử không rõ, chỉ biết ông làm chức Thủ cơ Cai đội.
Ông mất ngày 11 tháng 2 năm Nhâm thìn (14-3-1772) lúc 33 tuổi, được truy tặng chức Cai cơ. Lăng táng tại làng Cư Chính, Thừa Thiên. Nhà thờ tại làng Dương Phẩm (Hương Thủy, Thừa Thiên).
Ông có 3 người con trai là: Nguyễn Phúc Bính, Nguyễn Phúc Chương và Nguyễn Phúc Thân và hai người con gái (không rõ tên).
10.3.3.11A. Nguyễn Phúc Tuấn Cai đội
Ông là con thứ 11 của đức Vũ Vương, mẹ là Chiêu Nghi phu nhân Trần Thị Xạ. Ông sinh ngày 10 tháng 7 năm Quí hợi (28-8-1743). Tiểu sử không rõ.
Ông mất ngày 23 tháng 4 năm Giáp thân (23-5-1764) lúc 23 tuổi, được truy tặng chức Cai đội. Lăng táng tại làng Nguyệt Biều (Hương Thủy, Thừa Thiên).
Ông chì cò một người con gái (không rõ tên).
10.3.3.12A. Nguyễn Phúc Yến
Ông là con thứ 12 của đức Vũ Vương (còn có tên là Viêm), mẹ là Chiêu Nghi phu nhân Trần Thị Xạ. Ông sinh ngày 10 tháng 9 năm Quí hợi (26-10-1743). Tiểu sử không rõ.
Ông mất ngày 15 tháng 3 năm Bính thân (2-5-1776) lúc 24 tuổi, được phong chức là Tiết chế Chưởng dinh Quận công. Lăng và nhà thờ ở làng Dương Xuân, (Hương Thủy, Thừa Thiên).
Ông có 3 người con trai là: Nguyễn Phúc Hán, Nguyễn Phúc Tấn và Nguyễn Phúc Hoảng.
10.3.3.13A. Nguyễn Phúc Đạn Chưởnh dinh Quận công
Ông là con thứ 13 của đức Vũ Vương (còn có tên là Trường), bà mẹ là Nguyễn Thị Thanh. Ông sinh ngày 14 tháng giêng năm Giáp tý (26-2-1744). Tiểu sử không rõ, chỉ biết ông làm chức Tiết chế Chưởng dinh Quận công.
Ông mất ngày 16 tháng giêng năm Bính ngọ (15-2-1786) lúc 43 tuổi. Lăng và nhà thờ ở làng Dương Xuân, (Hương Thủy, Thừa Thiên).
Ông có 2 người con trai là: Nguyễn Phúc Thự và Nguyễn Phúc Cẩn.
10.3.3.14A. Nguyễn Phúc Quyền
Ông là con thứ 14 của đức Vũ Vương, tên mẹ không rõ. Ông sinh ngày 17 tháng 4 năm Kỷ tỵ (2-6-1749).
Năm Ất mùi (1775), ông cùng với em là Nguyễn Phúc Xuân đến Quảng Nam chống Tây Sơn. Ông dùng Trương Phúc Tá làm mưu sĩ lại được một người lái buôn Trung Hoa tên là Tất đem của cải ra giúp để chiêu mộ nghĩa binh. Quân của ông chiếm được hai phủ Thăng Bình và Điện Bàn, thế binh rất lớn làm Nguyễn Nhạc lo sợ. Về sau, gặp năm mất mùa, lương thực thiếu, quân địch thừa cơ tấn công làm quân ông tan rã, không biết tung tích của ông ra sao.
Ông không có con trai.
10.3.3.15A. Nguyễn Phúc Diệu Thiếu bảo Quận công
Ông là con thứ 15 của đức Vũ Vương, mẹ là Công nữ Nguyễn Phúc Ngọc Cầu (về sau đi tu, khi mất được phong tặng là Huệ Tĩnh Thánh Mẫu Nguyên Sư). Ông sinh năm Quí dậu (1753).
Tiểu sử không rõ.
Ông mất sớm, được phong tặng là Thiếu bảo Quận công. Lăng táng bên cạnh lăng bà Huệ Tĩnh Thánh Mẫu.
10.3.3.17A. Nguyễn Phúc Xuân Thiếu phó Quận công
Ông là con thứ 17 của đức Vũ Vương, mẹ là cung tần Vũ Thị Huyên. Ông sinh ngày 20 tháng 10 năm Đinh sửu (1-12-1757).
Năm Bính thân (1775), ông cùng với anh là Nguyễn Phúc Quyền chống nhau với Tây Sơn ở Quảng Nam. Ông bị thua phải vượt bể chạy vào Bình Thuận, gặp Đông cung, theo Đông cung vào Gia Định. Đức Duệ Tông gặp ông, rất mừng, phong cho ông làm Chưởng cơ, giao giữ đồn Hương Phúc. Năm Đinh dậu (1777), Nguyễn Huệ tấn công Gia Định, ông theo đức Duệ Tông lánh vào Long Xuyên. Đến lúc Gia Định thất thủ, ông thoát được, cùng với Mạc Thiên Tứ trốn qua Xiêm xin cứu viện nhưng thất bại. Sau ông bị Nặc Ông Giao dùng kế phản gián làm vua Xiêm nghi ngờ là ông và Nặc Thiên Tứ mưu lấy thành Vọng Các, vì vậy ông bi hại.
Ông mất ngày 19 tháng 11 năm Canh tý (14-12-1780) lúc 24 tuổi. Đời vua Gia Long, ông được truy tặng là Thiếu phó Quận công. Vua cho đưa thi hài về an táng ở làng Dương Xuân (Hương Thủy, Thừa Thiên) và cho thờ ở Thái Miếu Trung Tiết Công thần.
Ông có một người con trai tên là Nguyễn Phúc Dịch và người con gái (không rõ tên).
10.3.3.18A. Nguyễn Phúc Thăng Phúc Long Quân
Ông là con thứ 18 của đức Vũ Vương, mẹ là bà Hữu cung tần Tống Thị Quyên. Ông sinh ngày 17 tháng 11 năm Nhâm ngọ (21-12-1762).
Gặp loạn năm Giáp ngọ (1774), đức Duệ Tông vào Nam, ông lúc đó mới 13 tuổi, không theo được nên Tây Sơn bắt. May nhờ có tướng Tây Sơn là Nguyễn Chân muốn gả con gái cho nên hết sức giải cứu để khỏi bị giam cầm nhưng cấm không được đi đâu xa. Ông phải đi câu cá độ nhật. Năm Quí sửu (1793), khi đi câu, thấy một thây đàn ông nổi lên, trạc tuổi với mình, ông cho thây ma mặc y phục của mình, giả làm đi câu bị chết đuối. Nhờ vậy mà trốn được, ông cùng với cháu là Nguyễn Phúc Liêm (con Hoàng Tử Nguyễn Phúc Mão) vào ggạp đức Thế Tổ. Thế Tổ cầm tay, khóc nói : "Vận nước phải nhiều tai ách, người thân thích chịu lắm cảnh ngang trái, nào ngờ ngày nay còn gặp nhau, há chẳng do điều hay còn sót lại của các bậc tiên vương để khiến nguy mà thành phúc, nạn mà an toàn hay sao? " Rồi đức Thế Tổ cho mở yến tiệc hết sức vui vẻ. Ông được phong làm Quốc thúc Chưởng cơ Quận công, ban lễ vật rất hậu. (Liêm cũng được phong làm Khâm sai Cai đội).
Năm Tân dậu (1801) ông theo đức Thế Tổ khôi phục kinh thành Phú Xuân. năm Nhâm tuất (1802), Thế Tổ ngự giá thân chinh ra Bắc Hà, ông cùng với Nguyễn Văn Khiêm được giao cho giữ kinh thành, tùy tiện điều hành mọi việc. Về sau, ông được giao trông coi người trong họ, ông thường xin cho con cháu ở hệ tôn thất từ 8 đến 12 tuổi được cấp học bổng, vua chấp thuận. Năm Đinh sửu (1817), ông được phong tước Phúc Long Công, được ban sách, ấn, mũ, áo.
Ông là người trong họ được vua tôn trọng và sủng ái, vua thường gọi ông là Quốc thúc mà không gọi tên. Mỗi khi vào yết kiến, vua đứng dậy mời ngồi trên sập, ông cố từ chối nói : "Trên trời không thể có hai mặt nhật, thần Thăng này đâu có dám vậy !" Vua sai trải chiếu xuống đất cùng ngồi, ông liền đứng dậy lui ra. Vua đối với ông lễ càng hậu thì ông giữ mình càng nghiêm cẩn. Các tướng Nguyễn Văn Nhân, Lê Văn Duyệt thường bảo nhau : "Hoàng thượng dùng ân đối với người thân để được thân hơn mà ông lấy đức khiêm để càn khiêm nhường, xưa nay ít được thấy như vậy."
Ông mất ngày 8 tháng 6 năm Kỷ mão (29-7-1819) lúc 58 tuổi. Đức Thế Tổ rất thương tiếc, cho dùng lễ thân vương đời Tống mai táng ông, bãi triểu 5 ngày, ban thụy là Hòa Tĩnh. Vua cho xuất tiền kho để lo lễ tang, sai Hoàng tử Định Viễn làm chủ tế, lại bảo quan lễ bộ rằng : "Quốc thúc đối với nhà là bậc kỳ đức, đối với nước là bậc nguyên thần. Nay chẳng may mất đi, con còn dại, đợi lúc lớn tuổi sẽ ban cho tập tước lo việc thừ tự."
Ông có 4 người con trai là : Nguyễn Phúc Thành, Nguyễn Phúc Vĩnh, Nguyễn Phúc Tường và Nguyễn Phúc Thùy. Trưởng tử Thành mất sớm, người con thứ hai là Vĩnh, đến đời Minh Mệnh được ban tập tước Phúc Long Hầu.
10.3.3.1B. Nguyễn Phúc Ngọc Tuyên
Bà là trưởng tử của đức Vũ Vương, mẹ là Tả cung tần Tống Thị (không rõ tên). Ngày tháng năm sinh của bà không rõ. Bà hạ giá lấy ông Tiết chế Chưởng dinh Nguyễn Cửu Thống.
Gặp biến cố năm Giáp ngọ (1774), ông Thống mất, bà lưu ngụ ở làng Vân Dương (Hương Thủy, Thừa Thiên), cắt tóc làm ni, hiệu là Vân Dương ni cô. Khi quân Tây Sơn đào phá lăng tẩm của liệt thánh, bà và Nguyễn Đức Duệ thân đến các xã Định Môn, Kim Ngọc, Cư Chính ngầm bảo nhân dân tùy nghi bảo vệ lăng tẩm. (Nhờ vậy mà Nguyễn Ngọc Huyên, người xã Cư Chính, đã chôn dấu hài cốt ở lăng Cơ Thánh vào nơi an ổn). Năm Tân hợi (1791), bà ngầm sai người thân tín (tên Thiện) theo thuyền buôn vào Gia Định tường thuật tình hình và binh lương của Tây Sơn và dân lên Hoài Nam khúc (do Hoàng Quang soạn) để đức Thế Tổ biết lòng dân đang mong ngóng. Đức Thế Tổ mừng lắm và từ đó thường cho người liên lạc với bà để dò xét binh tình của dịch. Bà đã đóng góp nhiều công trong việc chiêu dụ tướng Tây Sơn Lê Chất qui hàng. Sau khi khôi phục giang sơn, đức Thế Tổ cấp lương bổng cho bà rất hậu và cho xây phủ tại nơi bà ở.
Bà mất năm Đinh tỵ (1809), ngày tháng mất không rõ, thọ được 72 tuổi. Đước Thế Tổ cho quan lo việc tống táng ở làng Dương Xuân (Thừa Thiên), con cháu lấy chỗ bà ở làm noi thờ tự.
10.3.3.2B. Nguyễn Phúc Ngọc Nguyện
Bà là con thứ hai của đức Vũ Vương, hạ giá lấy ông Trương Phúc Thăng (làm quan chức Trấn thủ Chưởng cơ cựu dinh, con của Trương Phúc Loan). Tiểu sử không rõ.
Bà mất năm Quí tị (1773) lúc 48 tuổi.
10.3.3.3B. Nguyễn Phúc Ngọc Thành
Bà là con thứ ba của đức Vũ Vương, sinh năm Canh thân (1740), hạ giá lấy ông Nguyễn Cửu Quản (làm quan chức Nội tả Chưởng dinh), cháu nội của ông Nguyễn Cửu Kiều). Tiểu sử không rõ.
Bà mất năm Quí mão (1783) lúc 44 tuổi.
10.3.3.4B. Nguyễn Phúc Ngọc Ái
Bà là con thứ tư của đức Vũ Vương, sinh năm Quí hợi (1743), hạ giá lấy ông Nguyễn Cửu Sách (làm quan chức Tiết chế Chưởng cơ, con của ông Nguyễn Cửu Pháp). Tiểu sử không rõ.
Bà mất năm Ất mùi (1775) lúc 33 tuổi.
10.3.3.5B. Nguyễn Phúc Ngọc Muội
Bà là con thứ năm của đức Vũ Vương, mẹ là Tả cung tần Trương Thị Bích, sinh năm Kỷ tị (1749), hạ giá lấy ông Trương Phúc Đạo (làm quan chức Cai đội). Tiểu sử không rõ.
Bà mất năm Ất dậu (1825), được ban thụy là Nhân Từ, hưởng thọ 77 tuổi.
10.3.3.6B. Nguyễn Phúc Ngọc Quận
Bà là con thứ sáu của đức Vũ Vương, bà hạ giá lấy ông Tống Phúc Khuông (làm quan chức Chưởng dinh). Công chúa vì gia đình không hòa thuận bỏ về Quảng Ngãi. Đi đến Bản Tân bị địch bắt, dìn chết tại sông Hội An tỉnh Quảng Nam.
Bà mất lúc 25 tuổi. Tôi tớ thu nhặt hài cốt đem an táng. Năm Ất sửu (1805) vua cho đưa về an táng tại phường An Cựu (Thừa Thiên).
10.3.3.7B. Nguyễn Phúc Ngọc Thụ
Bà là con thứ bảy của đức Vũ Vương, mẹ là Tả cugn tần Trương Thị Cơ. Bà hạ giá lấy ông Trương Phúc Nhạc (làm quan chức Cai cơ, con thứ ba của Trương Phúc Loan).
Năm Ất mùi (1775), bà theo ông Nhạc vào Gia Định. Ông Nhạc mất, bà theo đức Thế Tổ ra Phú Quốc. Bà bi Tây Sơn giết tại Hà Tiên.
Bà mất lúc 37 tuổi.
10.3.3.8B. Nguyễn Phúc Ngọc Xuyến
Bà là con thứ tám của đức Vũ Vương (còn có tên là Huy), hạ giá lấy ông Nguyễn Cửu Tú (làm quan chức Cai cơ). Tiểu sử không rõ.
10.3.3.9B. Nguyễn Phúc Ngọc Dao
Bà là con thứ chín của đức Vũ Vương mẹ là Trương Hoàng Hậu. Tiểu sử không rõ.
Không biết bà mất năm nào, được vua Gia Long phong tặng là Đệ Nhất Cung hoàng nữ, thụy là Trinh Thục. Bà được thờ ở Triển từ.
10.3.3.10B. (khuyết danh)
Bà là con thứ mười của đức Vũ Vương hạ giá lấy ông Cai đội Chiểu (thiếu họ). Tiểu sử không rõ.
10.3.3.11B. Nguyễn Phúc Ngọc Cơ
Bà là con thứ mười một của đức Vũ Vương. Tiểu sử không rõ.
Không biết bà mất năm nào, được vua Gia Long phong tặng là Đệ Nhất Cung hoàng nữ, thụy là Trinh Thục. Bà được thờ ở Triển từ.
10.3.3.12B. (khuyết danh)
Bà là con thứ mười hai của đức Vũ Vương hạ giá lấy ông Cai cơ Tín (thiếu họ). Tiểu sử không rõ. |