GIA

PHẢ

TỘC


Văn
-

Lam
-
Thăng
Bình
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
VIẾT VỀ THUỶ TỔ CỦA DÒNG HỌ


TÔN ĐỒ THẾ HỆ TỘC
VÕ VĂN



 



Thủy tổ Võ Đại
Lang, húy Khâm Thụy Dinh Bửu Hầu . Nguyên quán ở xã Nguyên Đăng, tổng Bình Phú,
Huyện Diễn Lộc, tỉnh Hà Tĩnh (Châu Hoang), Ông được Phong tước Dinh Bửu Hầu.



Phu Nhơn tên
Trà mạnh Nương, Thụy Mai Châu.



Cuối đời nhà Trần,
Chiêm thành bị nước ta chinh phục. Thời kỳ Nam tiến
được hàm ân
vua phong vào Quảng Nam khai cơ lập bộ
. Ông bà đã kiến canh lập nghiệp tại
đất Hà Lam. Ông bà sanh hạ Nhị thế tổ Võ Văn Nhan. Ông Võ Văn Nhan kết hôn với
bà Nguyễn Thị Song sanh hạ Tam thế tổ Võ Văn Hiếu. Ông Võ Văn Hiếu kết hôn cùng
bà Nguyễn Thị Nga sanh hạ 5 ông, ông thứ 2, 3, 4, 5 đi biệt xứ không rõ. Còn
ông anh cả Tứ thế tổ Võ Văn Đức kết hôn cùng bà Nguyễn Thị Lợi sanh hạ Ngũ thế
tổ là 3 ông :

- Ngũ thế tổ Võ Văn Oai.

- Ngũ thế tổ Võ Văn Chánh.

- Ngũ thế tổ Võ Văn Trực.

1) Ngũ thế tổ Võ Văn Oai ngẫu hôn tiền thê sanh Lục thế tổ Võ Văn Uyên.

+ Lục thế tổ Võ Văn Uyên sanh hạ xuống đến các kế thế thứ 15, 16 và  kế tiếp.

+ Chánh thất Ngũ thế tổ Võ Văn Oai sanh hạ Lục thế tổ là 3 ông:

- Lục thế tổ Võ Văn Định.

- Lục thế tổ Võ Văn Nghi (vô tự).

- Lục thế tổ Võ Văn Thất.

2) Ngũ thế tổ ông Võ Văn Chánh sanh hạ kế xuống phái thứ V.

3) Ngũ thế tổ ông Võ Văn Trực đi tha phương biệt xứ không rõ tin tức.

1/ Lục thế tổ ông Võ Văn Định kết hôn cùng bà Nguyễn Thị Liêm sanh hạ đời thứ
7, được 6 ông. Vô tự mất sớm hết 5 ông. Còn ông thứ 4 là Thất thế tổ Võ Văn
Kim. Thất thế tổ Võ Văn Kim kết hôn cùng bà Nguyễn thị Khống, sanh hạ đời thứ 8
được 3 ông. Phân phái:

1.- Bát thế tổ Võ Văn Hi, tự giản : Phái I

2.- Bát thể tổ Võ Văn Khương : Phái II

3.- Bát thể tổ Võ Văn Liệu : Phái III

2/ Lục thế tổ Võ Văn Nghi vô tự

3/ Lục thế tổ Võ Văn Thất sanh hạ xuống phái IV. Kế thế sanh hạ đến đời nay là
16 đời và kế tiếp.

+ Hiện nay phái II sanh hạ đến thế thứ 14 đã kết thúc. Còn 4 phái chúng ta vô
cùng đau thương tường thuật thế hệ.

Thập
làm thế Võ Văn Nguyện.





Lược thuật công đức của tổ tiên

Tộc Võ Văn





Thủy tổ Võ Đại
Lang và bà Trà Mạnh Nương, sanh hạ được một người con, tức Nhị thế tổ.

Nhị thế tổ là Võ Văn Nhan kết hôn cùng bà Nguyễn Thị Song sanh hạ được một
người con trai, tức Tam thế tổ.

Nhị thế tổ mất sớm. Năm Lê Cảnh Trị nguyên niên (vua Huyền Tôn hiệu là Cảnh
Trị. Cảnh Trị Nguyên niên : 1663), Tam thế tổ cùng mẹ thiết lập một ngôi chùa
thờ Phật tại xứ Non-núi (lúc bấy giờ ở đây chưa có xã hiệu, nay thuộc ấp Ngọc
Sơn). Đặt hiệu là chùa Phúc Lâm Tự, trong chùa có nhiều tượng Phật, có chuông
mỏ hẳn hoi, có sư tăng trụ trì chuyên lo tụng niệm, hương hỏa trang nghiêm, có
nhà lăng giếng đầy đủ tiện nghi. Xung quanh Chùa núi cây bao bọc, rộng lớn hơn
5 mẫu cây cối xanh tươi rậm rạp.

Ngoài ra có hơn một mẫu thổ, hơn 5 sào ruộng tại xứ Bàu Bàng 2 mẫu 2 ruộng tại
xứ Bàu Bàng. Số ruộng đất kể trên mẹ con bà trích trí hương hỏa cho chùa, và
cấp dưỡng cho sư tăng trú trì ở đây tụng niệm.

Tất cả núi, đất, ruộng nói trên của thủy tổ đứng bộ lưu hạ. Cũng năm đó mẹ con
bà trở về kiến thiết thêm một cảnh chùa nữa tại ấp Đồng Thái đặt hiệu Tây Sơn
Tự. Cảnh chùa này không có sư tăng trù trì, sau một thời gian lâu, tộc cúng cho
ấp Đồng Thái phụng tự.

Cảnh chùa Phúc lâm về đời sau không có sư tăng trú trì ở nữa, nên tộc phải đặt
người ở gần đó chăm nom và lo cúng kinh như thường lệ. Cảnh chùa này trải qua
bao thế kỷ gặp nhiều lần biến cố nhưng vẫn tồn tại. Đến năm Bính Ngọ 1966, cách
mạng chiếm đóng quân đội quốc gia tấn công nên chùa bị tan vỡ vì bom đạn nay
tạm thời để chờ thời tái lập. Ô hô! Chùa đã bị sụp đổ sau 303 năm! Núi rừng cây
cối bị xơ xác, ruộng đất bị lở lấp. Nhưng di tích lịch sử của tiền nhân vẫn còn
chói rạng trong lòng người Võ Văn đến muôn đời sau.

Cảnh chùa này so với cảnh chùa Hà Lam kiến tạo hồi Vua Hiếu Tôn 1764 niên hiệu
Cảnh Hưng thế chùa tộc ta có trước 101 năm.

Nói về ruộng đất núi rừng tại bộ làng Ngọc Sơn đó Thủy tổ đứng bộ đến triều vua
Gia Long lập bộ lại thì ông Võ Văn Hi đứng thừa kế, công đức xây dựng tộc như
sau:

Phái I : Ông Võ Văn Hi, tự Giản đứng bộ xứ Kham La Mang ruộng, đất rừng tràm và
mộ địa.

Ông Võ Văn Luận, Tự tuyên đứng bộ ruộng Xuân Thu

Phái III : Ông Võ Văn khoa, tự Ứng, đứng bộ núi xứ Thị Đàng (Thuộc ấp Đồng
Thái) và ông cúng 2 sào đất cho làng Hà Lam, làm nhà thờ Tiền Hiền .

Phái IV : Ông Võ Văn Thuận đứng đất và cám xứ Trà Quân, nay làng Hà Lam đỗi 2
số hiệu xứ Bà Nú để làm Đàng Tiên Nông.

Phái V : Ông Võ Văn Viên đứng bộ đất và mộ địa trên Loài thuộc bộ Phú Cang.

Tóm lại ông bà tộc Võ Văn chúng ta đã có công gây dựng lưu hạ lại đời sau đủ
tiện nghi, có chùa, có nhà thờ tổ tiên, có ruộng đất, trích trí hương hỏa, sống
thừa hưởng khỏi đóng góp, chết có mộ địa. Ngày nay con cháu chúng ta phải có
bổn phận bảo tồn di tích của tổ tiên. Sách có câu “Sáng nghiệp nan thủ thành
bất vị”, đó là về vật chất. Còn về tinh thần, chúng ta phải noi gương tổ tiên,
giữ được thuần phong mỹ tục, trên thuận dưới hòa, có tôn ti thượng hạ, biết yêu
thương đùm bọc lẫn nhau. Vì tộc chúng ta từ trước đến nay nổi tiếng là một tộc
có kỷ cang.

Nay nhơn ngày tu tộc phổ nên tôi xin lược ghi lại đôi điểm: 1 là ôn lại quá khứ
để kính tri ân tổ tiên, 2 nhắc nhở hiện tại lo gìn giữ, lưu lại tương lai biết
rõ, lo bảo tồn vĩnh cữu.

Được như thế chúng ta mới hãnh diện là con cháu của tộc Võ Văn vậy.





Lược ghi công đức, Võ Văn Nguyện - lược thuật





Kính báo: Các con cháu tiếp tục bổ sung công
đức của các đời trước.

Kính

Vũ Quốc Bảo





Gia Phả Võ Văn - Hà Lam - Thăng Bình
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc Võ Văn - Hà Lam - Thăng Bình.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc Võ Văn - Hà Lam - Thăng Bình
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.