PHẢ KÝ HỌ HOÀNG QUẢNG HÀ, DIỄN CÁT DIỄN CHÂU NGHỆ AN
Phần 1: Tìm hiểu về họ Hoàng
Nguồn gốc chữ Hoàng trong tiếng Hán
黃-黄
Nghiên cứu về nguồn gốc họ Hoàng, bộ Bách Tính Tầm Nguyên nói rằng: Dưới đời Phục Hy Thị, một nhà có tám anh em chia nhau nỗi người đi một phương, lập thành tám bộ lạc khác nhau. Có một người đến một chỗ thung lũng bạt cỏ làm ruộng. Trong đời Thần Nông Thị ngoài đó đã trở thành một bộ lạc có sức mạnh, có thế lớn nổi tiếng là người Hiên Viên. Bộ lạc này biết chế tạo và sử dụng vũ khí để đánh dẹp gây dựng nên một bộ lạc hùng cường. Rồi cũng vì ý thức tìm về nguồn gốc, người Hiên Viên ghi lại bộ phát tích của Tổ tiên. Một trong tám anh em, họ dùng chữ Nhất là Một, và chữ Bát là Tám. Phá cỏ làm ruộng, họ dùng chữ Thảo là Cỏ và chữ Điền là Ruộng. Bốn chữ: Nhất, Bát, Thảo, Điền đem sắp xếp gọn lại thành chữ Hoàng Bộ lạc Hiên Viên dùng chữ Hoàng để làm Họ. Sau này họ Hoàng xưng đế thay Thần Nông Thị gọi là Hoàng đế Hiên Viên. Hoàng đế là vua thứ Ba trong Ngũ Đế: Phục Hy Thị, Thần Nông Thị, Hoàng Đế, Đế Nghiêu, Đế Thuấn.
(Chú ý: Trong gia phả, họ Hoàng ta không dùng chữ 黄mà dùng chữ 黃để phân biệt với một họ Hoàng khác cũng ở Quảng Hà mà ta gọi là họ Hoàng Ngoại hay là Hoàng Mạc có nguồn gốc là họ Mạc 莫, chạy từ Chí Linh-Hải Dương vào sau khi nhà Lê chiếm lại ngôi từ nhà Mạc) (xem thêm gia phả họ Mạc ở Đô Lương)
Nguồn gốc Họ Hoàng chúng ta ở Trung Quốc
Họ Hoàng ở Trung Quốc xếp thứ 8 trong các dòng họ và có dân số (tính trên toàn thế giới) khoảng 31 triệu người (năm 2000). Trong bản bách gia tính (百家姓), họ Hoàng chép ở số thứ tự 96.
Từ đời nhà Shun (帝舜)(Thuấn đế), Hui Lian 惠连 (Huệ Liên), con trai của Lu Zhong 陆终 (Lục Chung), hậu duệ của Hoàng Đế (黄帝) đã thành công trong việc chế ngự lũ lụt, vua Shun (Thuấn) ban đất Can'hu (参胡, Tham Hồ), ngày nay là đất Fenyang (汾阳, Phần Dương) tỉnh Shanxi (山西省, Sơn Tây). Vào năm 2200 trước công nguyên, vua Shun đổi tên đất Can'hu thành đất của nước Hoàng (黄国) và ban họ cho Hui Lian thành họ Hoàng (黄), tên là Yun (云, Vân). Từ đấy, con cháu họ Hoàng cai trị đất này cho đến thời Xuân Thu (春秋时代) (722- 481 trước công nguyên). Sau đó rơi vào tay nước Jin (晋国) (Tấn Quốc).
Như vậy, từ đời Hoàng Đế đến Hui Lian tất cả 12 đời như sau: (1) 黄帝 Hoàng Đế (Huang Di), (2) Chang Yi 昌意 (Xương Ý), (3)Zhuan Xu (Emperor) 帝颛须,(Chuyên Tu đế) (4)Qiong Chan 穷蝉 (Cùng Thiền), (5)Nu Xiu 女修,(Nữ Tu), (6)Lao Tong 老童 (Lão Đồng), (7)Shao Xin 少辛 (Thiểu Tân),(8)Juan Zhang 卷章 (Quyển Chương), (9)Zhong Li 重黎 (Trọng Lê), (10)Wu Hui 吴回 (Ngô Hồi), (11)Lu Zhong 陆终 (Lục Chung), (12)Hui Lian 惠连 (Huệ Liên). Tính đến nay đã là 4200 năm kể từ ông tổ Hui Lian (Huang Yun – 2253TCN).
Sự phát triển của Họ Hoàng
Vào năm 891 trước CN, Chu Thảo Vương (Zhou Xiao Wang) 周孝王 phong Hầu cho Hoàng Hi (黄熙) (con trai (aka) của Huang Shi 黄石-Hoàng Thạch), hậu duệ thứ 53 của Huệ Liên (惠连) và phong đất vùng phiá đông sông Hán (汉水) (ngày nay thuộc vùng Nghi Thành (Yicheng) (宜城) tỉnh Hồ Bắc (湖北) gọi là đất Hoàng (lưu ý đất này khác với nước Hoàng ở Phần Dương, tỉnh Sơn Tây). Lãnh địa này gồm 4 nước: Giang (江), Hoàng (黄) - được gây dựng do hậu duệ của Bá Ích (伯益), Đạo (道), Bá (伯), nằm trong thung lũng sông Hoàng (潢水). Nước Hoàng ở Nghi Thành, Hồ Bắc được xem như nước Tây Hoàng (西黄) trong lịck sử. Vào năm 845 trước CN, Hầu Văn (文侯) Hoàng Mạnh (黄孟), aka của Hoàng Chương (黄璋) dời đô nước Hoàng từ Nghi Thành về Hoàng Xuyên (Huangchuan) (潢川), tỉnh Hà Nam và lập nên nước Hoàng mới. Hậu duệ của Hoàng Hi (黄熙) thống trị đất Hoàng cho đến năm 648 TCN sau đó bị nước Sở, một chư hầu của Nhà Chu chiếm mất. Hầu Mục (穆侯) Hoàng Xí Sanh (黄企生) chạy thoát sang lánh ở nước Tề (齐国) (ngày nay thuộc Linzi, tỉnh Sơn Đông (山东省)). Thần dân nước Hoàng buộc di chuyển về đất nhà Chu, ngày nay thuộc tỉnh Hồ Bắc, nơi mà được gọi là Giang Hạ quận (Jiangxia 江夏郡) thời nhà Hán (汉朝) (nay là Vũ Hán). Ngày nay, nhiều nơi ở vùng này vẫn còn có tên là Hoàng như Hoàng Cương (黄冈), Hoàng Pha (黄陂), Hoàng Mai (黄梅), Hoàng Thạch (黄石). Một phần lớn thần dân Hoàng cũng dời đến vùng phía Nam sông Trường giang/Giang Tế (Dương tử) (长江), dần dần đồng hoá với dân địa phương mà thành dân thiểu số họ Hoàng không thuần Hán đang sống ở vùng nam Trung Quốc ngày nay.
Từ Giang Hạ, dần dần họ Hoàng đi khắp Trung Hoa và trên thế giới. Từ đây, Giang Hạ được xem như là cái nôi của họ Hoàng. Ngày nay, họ Hoàng được gọi là Hoàng Giang Hạ và tên gọi Giang Hạ tương đồng với họ Hoàng.
Sau 3 thế kỷ suy tàn, họ Hoàng được phục hưng khi Hoàng Hiết (黄歇), một hậu duệ của gia đình quý tộc họ Hoàng đã được tiến cử làm tể tướng nhà Chu. Hoàng Hiết được phong là lãnh chúa Xuân Thân (春申君) sống vào năm (314-238 TCN). Thời nhà Hán, Hoàng Bá (黄霸) (130 - 51 TCN) lại được phong làm tể tướng. Họ Hoàng bước vào thời kỳ cực thịnh trong thời nhà Hán
Vào thời nhà Tấn (晋朝) (265-420), rợ Hồ xâm lấn phía Bắc Trung Hoa, nhiều dân cư sống phía bắc (đặc biệt là các gia đình quan lại) di chuyển xuống phía nam cùng với nhà Tấn. Đây chính là thời gian dân họ Hoàng nhập cư vào Phúc Kiến (福建省). Từ đời nhà Đường (618-907 sau CN) về sau, dân họ Hoàng nhập cư vào Quảng đông (广东省) từ Phúc Kiến. Họ Hoàng phát triển trở nên dòng họ lớn và đứng thứ 3 ở Nam Trung Hoa ngày nay.
Thời gian giao thời giữa nhà Minh (明) (1368-1644) nhà Thanh (清) (1644-1912), nhiều quan lại họ Hoàng theo lực lượng Nhà Minh chống nhà Thanh dưới sự lãnh đạo của Trịnh Thành Công
(郑成功) đã vượt biển sang Đài Loan. Dân họ Hoàng vượt biển xuống Đông Nam Á chủ yếu vào đầu thế kỷ 14 thời nhà Minh.
Theo gia phả họ Hoàng ở Trung Quốc, đến thời quân Nguyên Mông xâm lược Trung Hoa (1279), dựng nên triều Nguyên (Yuan-1279-1368), đây là thời kỳ bước ngoặt lớn cho họ Hoàng, từ thời kỳ huy hoàng cực thịnh bước vào thời kỳ suy tàn mà không thể nào khôi phục được.
Lần theo gia phả họ Hoàng, đến đời 131, Hoàng Bá Nghiêu/Giao 黄伯尧 (1340-1398), dời đến ở Cao sơn (Gaoshan), Zhangpu (nay thuộc làng Gaoshan thị trấn Shaxi, huyện Zhangpu , tỉnh Phúc Kiến), Đến đời 134, Huang Tianhai (黄添海-Hoàng Thiêm Hải ), tên riêng là Hoàng Cung (黄恭), chuyển đến Jiaotou, Dongbo, Dongshan (nay là Dongling, huyện Dongshan, tỉnh Phúc Kiến-Fujian), thời vua Hongzhi (1488-1505) đời nhà Minh. Một cháu nội của ông ta tên là Hoàng Kế 黄继, dời đến Cao Khanh (高坑) (nay là thị tứ Meiling), huyện Zhao'an hình thành nên dòng họ Hoàng Cao Khanh. Như vậy, Huang Tianhai được xem như là ông tổ của dòng họ Hoàng Cao Khanh, huyện Zhao’an, tỉnh Phúc Kiến. Đời 136, Huang Ji (黄继,Hoàng Chi), thuộc nhà Minh vua Minh Gia Tĩnh (明嘉靖:1522-1567), ông là cha của 6 người con (con út là con nuôi thuộc dòng Hoàng Ziyun). Từ đây hình thành nên 6 nhánh lớn họ Hoàng gọi là 6 nhánh họ Hoàng ở Cao Khanh. Đời thứ 137, Huang Tu (黄徒, Hoàng Đồ), tiếp tục sống tại Cao Khanh Zhao’an. Đời thứ 138 (không rõ tên), chuyển đến ở làngTianpan, Cao Khanh lập nên đền Thiệu Kế Đường (绍继堂). Từ đây đến đời 145 (thuộc cuối nhà Minh đến nhà Thanh) gia phả bị mất hoàn toàn do cuộc đại cách mạng văn hoá (1966-1976).
(Hoàng Minh Tuyển tổng hợp, lược dịch)
Phần 2: Gia Phả
黃 家 世譜
(Hoàng gia thế phổ)
Họ Hoàng ở xóm Quảng Hà, Diễn Cát
Diễn Châu, Nghệ An
Ngã tộc Giang Hạ quận chi nhất phái
我 族 江 夏 郡 之 一 派
(Họ Hoàng ta là một nhánh ở quận Giang Hạ)
Nhắc công đức cao dày ngày trước
Để bồi thêm tài lực đời sau
Mong sao con cháu khuyên nhau
Suy sâu, nghĩ kỹ, vì đâu có mình
Kính dâng lên cả tấm lòng thành
LỜI NÓI ĐẦU CỦA GIA PHẢ
Trên hành tinh của chúng ta, khắp năm châu bốn biển, không có một dòng họ nào biết được ông Thỉ Tổ đầu tiên của họ mình. Đó là điều khẳng định.
Họ Hoàng ta, hiện nay con cháu đã tra cứu hệ thống phổ kí biết được Thỉ Tổ gần nhất của họ mình, đó là tiên tổ Hoàng Trục. Tiên Tổ Tỷ là Lê Thị Sinh. Tiên Tổ Hoàng Trục sinh vào thời vua Lê Thánh Tông. Theo phổ chí từ Thỉ Tổ đến các hàng tiên tổ, cũng như bút tích của các nhà khoa bảng trong dòng họ lưu lại:
Thế đức vĩnh truyền Giang Hạ quận
Dịch ân hương dẫn Ngọc Lâm thôn
Đường truyền Quách Thị Thân nhân trạch
Tống biểu Giang Châu hiếu nghĩa môn.
Hai câu đối trên cho ta biết được nguồn gốc quê quán Tiên Tổ họ ta là Giang Hạ quận.
Hoàng Nhạc đậu tiến sĩ khoa Nhâm Tuất (1502) làm tri huyện quận Giao Thuỷ, phụng chiếu chỉ triều Lê, nhận chức chánh sứ Tàu, sau khi mất được tôn Thành Hoàng, lập đền thờ tại Áo Đen, do làng Ngọc Lâm phụng tự.
Tiên Tổ Tỷ Hoàng môn chính thất thuỵ hiệu Hồng Tráng, trung hậu đức hạnh nhụ nhân. Tiên Tổ Hồng Tráng sinh hạ Tiên Tổ Hoàng Công Cán là hệ thứ nhất, từ đường tiên Tổ ở xóm Cầu, thuộc xã Diễn Lợi. Trưởng tộc đương kim là bác Hoàng Công Lũ phụng tự.
Tiên tổ Hoàng Công Miễn là thế hệ thứ hai, nhà thờ Tiên Tổ ở xóm Quảng Đông, xã Diễn Cát. Trưởng tộc đương kim là bác Hoàng Công Dinh Phụng tự.
Người xưa nói: “Uống nước phải nhớ nguồn, yêu nòi đừng quên tổ tiên”. Vì vậy xưa nay họ nào cũng có gia phả, gia phả cũng như quốc sử, để ghi chép sự việc trước kia. Nước không có Quốc sử thì sự nghiệp vĩ đại của các anh hùng dân tộc, nay không còn ai biết mà nhắc đến. Họ không có tộc phổ thì công phu xây dựng khó nhọc của Tiên Tổ nay con cháu không biết đâu để dò tìm. Ngày nay xã hội càng văn minh, chúng ta không mê tín dị đoan, giảm bớt lễ nghi phiền phức, còn việc tìm biết công đức Tiên Tổ, bảo vệ di tích thuở trước thì nay cũng như xưa, không hề đổi khác. Do vậy con cháu các đời sau phải có trách nhiệm sưu tập dò tìm, dựa vào các bản gia phả trước, mà sắp xếp tiếp nối các thế hệ sau đó có hệ thống, không bị gián đoạn.
Hiện nay con cháu họ Hoàng ta thiên cư nhiều nơi, có thể nói khắp mọi miền đất nước, chúng ta e rằng các đời sau, có một số con cháu ít đi lại rồi xa dần, thành thử may chăng chỉ biết phụng thờ từ ông Tam đại trở xuống.
Người ta thường nói:
Sự tử như sự sinh
Sự vong như sự tồn
Thể phách tồn thiên địa
Tinh thần tại tử tôn
Còn ngày nay, ai biết xem gia phả của họ mình thì người đó tự sinh lòng hiếu độ. Gia phả ví như một giọt nước rất quí đối với người sống trên sa mạc, còn những người sống ven sông thì dễ gì mỗi lần uống nước lại nhớ đến nguồn. Vậy gia phả là gì? Nhà không có gia phả như nước không có sử. Con người hiếu hạnh phải hiểu được công ơn các đời Tiên Tổ, phải hiểu được vì ai mà có mình, xem gia phả để biết gốc tích của Thuỷ Tổ, biết các thế hệ Tiên Tổ, biết quan hệ trên dưới thân sơ trong họ, biết năm sinh tháng mất, ngày kị giỗ của các bậc tiền nhân. Ngoài mục đích trên gia phả còn lưu giữ nhiều sự tích đặc biệt của các vị Tiên Tổ, những bài thơ, những áng văn tuyệt tác, những câu đối hay những bài thuốc gia truyền và những kỉ vật mà ta xem đó là gia bảo của dòng họ.
Bất cứ con người nào trong họ, dù có tài ba lỗi lạc đến đâu, cá nhân càng không thể làm được gia phả mà chỉ có kế thừa đời trước, hướng dẫn đời sau, chắp nối gia phả của một dòng họ, trên dưới thành một hệ thống.
Do vậy chúng tôi gồm có: Ông Hoàng Điệng, biết Hán tự, thông hiểu gia phả. Ông Hoàng Khắc Chân, đương chức chủ tịch hội đồng gia tộc, là một đại tá quân đội về hưu, có công lớn tập hợp anh em, con cháu hướng vè cội nguồn. Tôi Hoàng Tiến Lực là giáo viên trường phổ thông trung học đã về hưu, là chú ruột của tộc trưởng đương kim thế hệ thứ hai. Chúng tôi dịch từ bản chữ Hán do hai cụ Tiến sĩ Hoàng Kiêm và cụ Tú tài Hàn lâm viện Hoàng Khắc Điển lưu lại. Từ bản gia phả đó chúng tôi phiên ra âm tiếng Việt, viết lại bằng Việt Văn để lưu lại cho con cháu các đời sau. Chúng tôi sao thành nhiều bản, phát cho bốn chi, mỗi chi một bản và gửi cho con cháu xa quê để biết nguồn gốc quê quán của mình.
Kính Thưa gia tộc, chúng tôi là con cháu tời hiện tại, bao giờ cũng gắn liền với quá khứ và chắp nối cho tương lai, song trong lúc thực hiện có gặp nhiều khó khăn, chủ yếu là do trình độ, cho nên không thẻ tránh phần thiếu sót. Rất mong được sự chỉ giáo của các bậc chú, bác cao niên, những con cháu nội ngoại tri thức thông tuệ trong gia tộc, bổ sung, thêm, bớt cho Phổ Kí Hoàng Tộc Đại Tôn ngày càng hoàn thiện.
Quảng Hà ngày 12 – 6 – 1996
Chủ bút
Hoàng Tiến Lực
HOÀNG TỘC TỰ BIA KÝ
Họ Hoàng ta là một phái ở quận Giang Hạ (Trung Quốc), đến nay không biết đã trải qua bao nhiêu đời. Theo những điều ghi chép trong gia phả, vì bị mai một lâu ngày nên không còn truyền lại.
Bắt đầu từ Tiên Tổ Hoàng Pháp Thắng đặt nền móng nhân nghĩa, gia đình thi lễ, minh đức trường xa, truyền qua bốn đời, đến Tiên Tổ Liêm Bình, con tự Viết Học đều thi đậu Hiệu sinh dưới thời nhà Lê. Từ đó về sau, khoa bảng liên tiếp gia thanh tiếng tăm khắp nơi truyền đến ba đời. Đến Tiên Tổ Hiển Khánh Công (Hoàng Khắc Quýnh) gia sản giàu có, sùng nho, tôn đạo, chuyên làm việc thiện, cứu giúp kẻ khốn cùng, thấy việc nghĩa là làm, thường có ý tiếc cho sự chi tiêu phung phí, cho nên lập ra Tế điền (ruộng tế), Kỵ điền (ruộng giỗ chạp), Văn điền (ruộng hội văn), Võ điền (ruộng hội võ) khoảng 30 mẫu, để hằng năm con cháu lấy đó phàm kế thờ phụng Tổ Tiên, và cũng tạo điều kiện cho hậu sinh “Làm trai sống trong trời đất. Phải có danh gì với núi sông”.
Tiên Tổ Hiển Khánh Công sinh hạ được bốn chi, con cháu nội ngoại đông đúc, thọ 102 tuổi, ngũ đại đồng đường.
Sắc tứ: Hoàng Khắc Quýnh, Nghệ An tỉnh, Diễn Châu phủ, Đông Thành huyện, Hoàng Xá xã, Hoa Lâm thôn.
Nhân thọ đăng bách tuế
Ngũ đại đồng đường
Sắc tứ tính thưởng dụng biểu. Thăng bình, nhân thuỵ Minh Mệnh bát niên, ngũ nguyệt, cát nhật. Vâng mệnh sắc tứ của triều đình, biển vàng biểu dương công đức, thật là một điều đáng kính trọng, lưu hương thiên cổ cho con cháu mai sau.
Ôi ! Sự tích rạng rỡ mở mang, bồi đắp của Tiên Liệt Tiên Tổ là nhờ sự đức độ, cần cù siêng năng nên mới để lại di sản quí báu cho con cháu mai sau. Con cháu gia tộc ta ở dưới bóng râm mát của Tiên Tổ, có thể không nhớ hết ân đức của Tiên Tổ, nhưng phải giữ gìn điều thiện đức thừa kế của cha ông, để không bao giờ làm gia tộc tủi nhục, Tiên Tổ hổ thẹn.
Thưa ! Chúng ta là hiện tại, phải gắn liền với quá khứ và có trách nhiệm nối tiếp cho tương lai, phái hệ và sự tích rõ ràng minh bạch sao lại trong phổ ký, không dám sai lạc.
Ngày lành tháng giêng mùa xuân Canh Thân, năm thứ 5 triều vua Khải Định. Tứ Đệ Tam giáp đồng Tiến sĩ, Bố chánh sứ tỉnh Thanh Hoá, cháu Hoàng Kiêm kính lạy và sơ thảo. Cháu Hoàng Khắc Điển, Tú tài Hàn lâm viện (viết chữ). Đồng tộc cung kính khắc vào bia đá.
(Bản dịch từ bia dựng tại nhà thờ Hoàng tộc đại tôn của ông Hoàng Tiến Lực)
HOÀNG GIA THẾ THỨ PHỔ KÝ
黄 家 世 次 譜 記
(Bản này dựa trên bản gia phả có bút tích của Tiến sĩ Hoàng Kiêm dặn ông Doạt chép lại và bổ sung các đời sau cho kỹ càng. Tuy nhiên chỉ chi tiết được chi thứ nhất. Các chi 2,3,4 xin xem thêm gia phả cụ Hàn biên soạn năm 1912 ở dưới đây)
Thỉ Tổ khảo, Thỉ Tổ Tỷ, Tiền Giang Hạ quận (Trung Quốc) Hoàng mạnh đường tự Pháp Thắng (琺 勝) phủ quân, kỵ nhật 12 – 7.
Thỉ Tổ Tỷ, Tiền Giang Hạ quận, Hoàng môn chính thất hiệu Thiện Nhân nhụ nhân, kỵ nhật 08 -11.
Tiên Tổ Khảo, Hoàng Nhất Lang, tự Chân Nhan (眞顏) phủ quân. Kỵ nhật 09 – 01.
Tiên Tổ Tỷ, Hoàng môn chính thất, hiêu tự Thiện ?? nhụ nhân.
Tiên Tổ Khảo, Hoàng môn á thất, hiệu tự Thông An nhụ nhân.
Tiên Tổ Khảo, Hoàng mạnh đường, tự Bản Tính (本性) phủ quân, kỵ nhật 16–02.
Tiên Tổ Tỷ, Hoàng môn chính thất, hiệu tự Thân nhụ nhân, kỵ nhật 21–9.
Tiên Tổ Khảo, Hoàng Quý Công, tự Thuận Đức (順德) phủ quân, kỵ nhật 10–4.
Tiên Tổ Tỷ, Hoàng môn chính thất tự Nhân nhụ nhân, kỵ nhật 14–12.
Tiên Tổ Khảo, Hoàng Mạnh Đường, tự Huyền Cơ (玄機) phủ quân, kỵ nhật 06–02
Tiên Tổ Tỷ, Hoàng môn chính thất hiệu tự An nhụ nhân, kỵ nhật 28–8.
Tiên Tổ Khảo, Tiền Triều bản phủ, hiệu sinh Hoàng Quý Công, tự Liêm Bình (廉平), Thuỵ An Tỉnh tiên sinh.
Tiên Tổ Tỷ, Tiền Triều bản phủ, hiệu sinh Hoàng môn chính thất, Thái Thị hạng tam hiệu tự Tâm nhụ nhân.
Tiên Tổ Tỷ, Tiền triều bản phủ, hiệu sinh Hoàng môn á thất, Thái Thị Nở công sinh hạ Viết Học, Viết Chính, Thiện Đạo. Kỵ nhật 18–01.
Tổ bá tiền triều bản phủ, Hiệu sinh, Hoàng mạnh đường tự Viết Học (曰學) tiên sinh. (Thiên cơ xa xứ, hậu thế mạc tri hà tại Tân Mão niên, bản Tộc nghênh pháp sư, phụ cử báo vi tử. Kỵ nhật 10–11. Mộ tại Nương Tháng. Quan quách thể phách bằng mộc dâu).
Tiên Tổ Bá, Tiền Triều bản phủ hiệu sinh Hoàng môn chính thất, Đặng Thị hạng nhị, hiệu tự Triêm nhụ nhân.
Tiên Tổ Bá, Tiền Triều Hoàng Quý Công tự Viết Chính (曰政) phủ quân
Tiên Tổ Cô, Hoàng Thị Hạng nhất nương hiệu Từ Nhuỵ nhụ nhân.
Tiên Tổ Khảo, Tiền quan viên phụ, Hoàng Quý Công tự Thiện Đạo (善道) phủ quân. Kỵ nhật 20 – 3. Mộ tại Nho Lâm xã. Toá hướng Bính nhân dị lập mộ chí. Pháp sư người Tàu chủ trì cát táng, thâm tam xích tứ thốn.
Tiên Tổ Tỷ, Hoàng môn chính thất, Nguyễn Thị hạng nhị, hiệu tự Nậm nhụ nhân. Kỵ nhật 29 – 10.
Sinh Viết Tuyển thú Lê Thị Phái, lượng thú Lê Thị Nước sinh nam nữ bất hạnh.
Kế thú Nguyễn Thị Khoa sinh nhất nam Xuân Mãi tự là Viết Tường và 4 nữ Thị Đậu, Thị Dạng, Thị Thuận, Thị Hoà.
(Hoàng Thị Đậu giá Nho Lâm là Cao Đình Chính, chết 08–9, bản tộc phụng tự. Hoàng Thị Dạng giá bản thôn là Lê Bá Tộc, sinh Bá Hiểu, Bá Thể, Bá Đỉnh phụng tự. Hoàng Thị Thuận giá bản thôn là Lê Danh Sỹ, sinh Danh Táo, Danh Đớn phụng tự. Hoàng Thị Hoà giá bản thôn là Trần Tộc, sinh Trần thị Huyền, Trần Nhương phụng tự).
Tiên Tổ Khảo, Tướng sỹ lang Tây Hồ, chung Tăng Sở Phó, Sở Sứ, kiêm trùm trưởng Hoàng Trung Đường, tự Xuân Mại (春邁), hiệu Viết Tường, thuỵ thuộc Thanh Liêm phủ quân. Sinh Ất Dậu niên (1705), hưởng số 71 tuổi, kỵ nhật 26–9 Ất Vỵ (1775). Mộ tại Ráng, Cồn Cao xứ, Kim Ngư phục toạ, cán hướng càn dị lập mộ chí.
Tiên Tổ Tỷ, Thý tướng sỹ lang Tây Hồ chung Tăng Sở Phó, sở sứ, kiêm trùm trưởng, Hoàng môn chính thất, Lưu thị hạng nhị, hiệu Đoan Chỉ nhụ nhân. Sinh Quý Vỵ niên (1703), hưởng số 76 tuổi, mất Mậu Tuất niên (1778), kỵ nhật 23–10. Mộ tại Quảng Hà, địa phận Nương Tháng xứ, toạ dậu hướng mão, di lập mộ chí.
Quan viên phụ chi tử, Hoàng Viết Tường tự Xuân Mãi tiền thú Trần thị Nghệ sinh nhất nữ Thị Sửu tảo tốt, tái thú bản thôn Lê Thị Nữ, sinh nhất nữ Thị Dậu tảo tốt , tái thú Lưu Thị Tửu (Tỉu) thôn Phú Hậu, xã Thọ Sơn, sinh Viết Thuật, Viết Quýnh và nhất nữ là Thị Tháp giá bản thôn sinh Đặng Tiến, Đặng Vỹ.
Tiên Tổ Khảo, Hoàng Mạnh Đường tự Viết Thuật (曰述) phủ quân, sinh Đinh Tỵ niên (1737), mất 02–12, hưởng số 55 tuổi, mộ tại Quảng Hà, Bụi Rậm xứ.
Tiên Tổ Tỷ, Hoàng môn chính thất, Đặng Thị Thiệu nhụ nhân, kỵ nhật 19–10. Sinh nhất nam, cửu nữ :
1. Nam Khắc Du Huý Quỳ, 14 tuổi mất 03 – 7 mộ tại Đồng De xứ.
2. Hoàng Thị Vang giá Yên Phụ xã, Tràng Thân thôn, chồng Nguyễn Thọ Tự.
3. Hoàng Thị Chiểu giá Bút Điền thôn, chồng Tạ Danh Chấn, sinh Tạ Danh Huyền.
4. Hoàng Thị Kiểm tảo tốt.
5. Hoàng Thị Mai giá tại Nho Lâm xã, vô sinh.
6. Hoàng Thị Đương giá tại Yên Lăng xã, chồng là Nguyễn Văn Quan, sinh Nguyễn Văn Tuấn.
7. Hoàng Thị Suốt giá Hậu Luật thôn, chồng Võ Đăng Trọng, sinh Võ Đăng Dậu.
8. Hoàng Thị Hy giá Quảng Hà thôn, chồng Hoàng Đăng Chu, sinh Hoàng Đăng Trân, tú tài Hoàng Đăng Tạnh, Hoàng Đăng Đắc.
9. Hoàng thị Lai giá Yên Nhân thôn, chồng là Nguyễn Danh Thức, sinh Nguyễn Danh Lộc.
10. Hoàng Thị Cầu giá Vân Tập thôn, chồng là Nguyễn Trọng Kính, sinh Nguyễn Trọng Đương.)
Tiên Tổ tỷ, Hoàng môn á thất, Đặng Thị hạng nhị hiệu Tự Đức nhụ nhân (Sinh Hoàng Thị Chân giá bản thôn Đặng thị hạng nhất, bản tộc phụng tự).
Tiên Tổ Khảo, Tiền Lê triều, thí tướng sỹ lang thừa hoa điện, Tri sự lịch thụ tiến công quản chức Vĩnh Khang huyện, huyện Thăng Thừng, Thụ Trường Khánh phủ, đồng tri phủ, kiêm nhất bách nhị tuế, ngũ đại đồng đường, Nhân Thuỵ, Khâm phụng kiến tính biểu tường sắc tứ:
DỊCH DIỆP DIỄN TƯỜNG KIM BIỂN
Hoàng Trọng đường, hiệu Viết Quýnh, thuỵ Hiển Khánh phủ quân.
Do bản phủ, tri phủ Huy Cảnh cung tiến thuật thuỵ hiệu, sinh Ất Tỵ niên (1725), hưởng số nhất bách nhị tuế, kỵ nhật 07–10, mộ tại Quảng Hà thôn địa phận, chí Thành Thái nhị niên (Canh Dần-1890) bản tộc phụng thỉnh. Tương địa Phú Lâm xã, Hương Khê huyện, tri huyện Lê Sắc tầm đắc nhất mạch tại Ngọc Lâm thôn, địa phận Đường già xứ, văn miếu tại Tây Bắc, thần miếu tại Tây Đông Đông Nam thổ đôi toạ cất hướng Tân, Phân Kim Tân Dậu Tân Mão chí Thành Thái thập tam niên, Canh Tý thập nhị nguyệt, thập ngũ nhật, bản tộc di lập mộ chí.
Tiên Tổ Tỷ, Tiền tướng sỹ lang thừa hoa điện, tri sự lịch thụ tiến công quản tức Vĩnh Khang huyện Thăng Thừng, Thụ Trường Khánh đồng tri phủ, niên Tê Kỳ Thọ, sắc tứ kim biển.
Hoàng môn chính thất, Nguyễn Thị hạng nhất, hiệu trang Khiết nhụ nhân. Sinh ư Mậu Dần, hưởng số thất thập tứ tuế, mất Ất Mão niên, kỵ nhật 24–12, mộ tại bản thôn, địa phận Tiểu Hiệu, Cồn Minh xứ, dị lập mộ chí. Sinh hạ tứ nam: Hoàng Tuân, Hoàng Kim Chúc, Hoàng Doãn Dịch, Hoàng Viết Dật (2 nam tảo tốt).
Nữ tử lục nhân : Thị Đam, Thị Lương, Thị Ân, Thị Chích, Thị Trinh, Thị Toàn..
Triều Lê Cảnh Hưng, tức Lê Hiển Tông (1740 – 1786). Tróc thưởng tứ tước lịch thụ tri huyện, đồng tri phủ sắc vận nhị Đạo, chí triều Minh Mệnh bát niên (1828) ngũ nguyệt cát nhật, khâm phụng kiến tính biểu tường sắc tứ : DỊCH DIỆP DIỄN TƯỜNG KIM BIỂN.
Nhật nghạch tái thưởng cấp kim ngân, y quan bố cảm các đính, ngũ tộc tiền đại nhân đinh, công sinh nam tử chí nhi tôn phồn diễn, phàm tế kỵ điền, tế điền, điếu điền, học điền, võ điền, gia công tứ chi cụ tại thuộc thủ nội do tộc trưởng nhận thủ.
Phụ lục
Trưởng tộc Hoàng Khắc Tuân (克遵) công uý phùng, sinh ư Ất Dậu niên (1765), hưởng số thất thập tứ tuế, kỵ nhật 13 – 3.
Tiền triều quan viên tử chí thụ tướng sỹ lang thừa hoa điện, tri sự Hoàng Mạnh Đường tự Khắc Tuân chất trực phủ quân Chính thất, Hoàng Thị hạng nhất hiệu, tự Hảo đức hạnh nhụ nhân, kỵ nhật 02–4.
Ấ thất , Hoàng thị nhị hiệu, tự Ý Yên sinh Khắc Đệ, ???. Thị Loan, Thị Lý.
Hoàng Thị Ninh giá Hậu Luật thôn, chồng Võ Đăng Thẩm, sinh Võ Thị Án.
Hoàng Thị Thái ??? giá bản thôn, chồng Lê Duy Nho, sinh Thị Phái.
Hoàng Thị Loan giá bản thôn, chồng Lê Trọng Bảo, sinh Trọng Phú, Trọng Hưu.
Hoàng Thị Lý giá Bút Điền, chồng Tạ Hữu Tưởng, sinh Hữu Chước, Hữu Chức.
Trưởng nam Hoàng Khắc Chu (克 周) công quan viên tử, chi trưởng thú Bút Điền xã. Con trưởng cụ Hoàng Khắc Tuân. Lấy Tạ Thị Duyên sinh hạ Hoàng Thoan/Tuấn, Hoàng Tạo, Hoàng Sính, Thú tiếp Phúc thiêm thôn, sinh hạ Khắc Tuỳ, Khắc Cận, thú tiếp Võ thị Thường.
Thứ nam Hoàng Khắc Đệ (克遰) công viên quan tử thú Bút Điền xã Tạ thị Tứ, sinh Khắc Toàn, Khắc Quán hiếu binh giai thành.
Hoàng Khắc Thoan (克 逡) thú Bút Điền xã Tạ Thị Tiến, sinh hạ Thị Thảnh, Khắc Điệt, Khắc Ngạn, Khắc Bạt, Thị Rằng, Song sinh Khắc Dũng+ Khắc Tố, Thị Công, Khắc Sáu, Thị Tích.
Hoàng Khắc Điệt (克 迭) trưởng tử thú bản thôn là Lê Thị Tiệc sinh Khắc Trác, Thị Chiêm (tảo tốt), Khắc Thạc, Khắc Thiệu, Khắc Miều.
Hoàng Khắc Trác thú bản thôn sinh Thị Xứ, Thị Lô, Khắc Truyền, Khắc Em.
Hoàng Khắc Miều thú Bút Điền xã, sinh Khắc Tờu.
Hoàng Khắc Ngạn hiệu Tự Lập, thú Vân Tập thôn, Thị Hảo sinh Thị Diệu, Khắc Doãn, Thị Đông, Khắc Cung, Thị Mão, Thị Ba sinh Trần Cò. Chí Tự Đức tam thập niên (1878) Mậu Dần khâm mông thụ chính, đội trưởng, sắc thụ tráng tiết, Lục phẩm di mục tứ đối nguyên ngũ hồi gia hưu dưỡng. Khắc Doãn mông thụ viên tử. Sinh hạ Khắc Doãn, Khắc Cung.
Khắc Doãn thú Ngọc Lâm thôn là Lê Thị Biển sinh Khắc Khoan và Thị Đông.
Khắc Cung thú tại bản thôn Nguyễn Thị Em, sinh Thị Đị, Thị Gái, Khắc Tắc.
Hoàng Khắc Dũng thú bản thôn sinh Khắc Ước, Khắc Hành.
Khắc Hành thú bản thôn, sinh Khắc Hẹ.
Hoàng Khắc Tố, thú bản thôn sinh Khắc Hộ. Khắc Hộ thú bản thôn sinh Khắc Hữu, Thị Em, Khắc Hạo.
Hoàng Khắc Sáu sinh nhị nữ. Thị Thanh giá Quảng Hà thôn, sinh Thái Doãn Trung , Thái Doãn Giáo, Thái Doãn Chớn.
Thị Rằng giá Xuân Viên, Trần Văn Nhã.
Thị Công giá Bút Điền Xã, Tạ Hữu Nghiêm.
Thị Hân giá Vân Tập thôn.
Hoàng Khắc Tiềm thú Hậu Luật là Võ Thị Xích sinh Khắc Biền, Khắc Viễn, Khắc Giáo,Thị Xuyên, Thị Ngôn.
Hoàng Khắc Biên thú bản thôn là Hoàng Thị Xuân sinh Thị Mai, Thị Miệu, Khắc Diên, Thị Bích, Thị Nhự.
Khắc Diên thú bản thôn là Lê Thị Ngạn.
Thị Miệu giá Quảng Hà là Trần văn Lai, sinh hạ Trần Đoài, Trần Bài
Thị Bích giá bản thôn là Lê Trọng Hội.
Khắc Tạo thú Quảng Hà là Trần Thị Tường, sinh Khắc Hoàng, Khắc Tác, Khắc Phú.
Khắc Hoàng sinh Khắc Loan, Thị Hoa, Thị Nhân, Thị A.
Khắc Sính thú Quảng Hà thôn là Nguyễn Thị Hạnh, sinh Khắc Giải, Khắc Trinh, Khắc Cu, Thị Đỉnh.
Hoàng Khắc Toàn thú Bút Điền xã là Tạ Thị Cân sinh Thị Phả, Khắc Toản, Khắc Thừng, Khắc Buồi, Khắc Cu.
Khắc Quán thú bản thôn là Lê Thị Huấn, sinh Khắc Quyến, Khắc Tờm (Tảo), Khắc Quyển, Thị Xuyến.
Khắc Quyến thú Quảng Hà là Đặng Thị Bàng, sinh Thị Bình, Thị Vàng, Thị Cúc. Tái thú sinh Khắc Diễn, Khắc Yến.
Khắc Quyển thú Quảng Hà là Trần Thị Khuyến sinh Khắc Thủ, Thị Tự, Thị Thi, Khắc Toán.
Thị Xuyến thú bản thôn, chồng Lê Trọng Thưởng, sinh Lê Trọng Đường.
Hoàng Thị Em giá Quảng Hà, chồng Lê Trọng Trinh sinh Trọng Bình, Trọng Hoàn, Trọng Hạt, Trọng Quát.
Khắc Tuy, Khắc Chu vợ chồng mất.
Khắc Cận ( phạp) vợ cải giá.
ĐỆ NHỊ CHI
Thứ nam Hoàng Kim Chúc, Tiền Lê triều, Hoàng Long điện Thăng tiến công quản tức Thần sách vệ, Hàn lâm viện giảng học sỹ, kiêm trùm trưởng, Tri bộ tê kỳ thọ Hoàng Công tự Kiêm Liên, Thuỵ ôn lượng phủ quân.
Hoàng môn chính thất Võ Thị hạng nhị hiệu từ Triêm Thụ Trực phúc hậu cung nhân.
ĐỆ TAM CHI
Tướng sỹ lang thừa hoa điện lịch hành tuần xã, Hoàng Quý Công, tự Doãn Dịch chất trực phủ quân.
Hoàng môn chính thất Cao Thị hạng nhất hiệu Từ Lượng nhụ nhân.
ĐỆ TỨ CHI
Tiên Tổ Khảo, Hoàng Quý Công tự Viết Dật, thục mẫn phủ quân.
Hoàng môn chính thất Hoàng Thị hạng nhất hiệu tự Lưu nhụ nhân.
HƯỚNG THƯỢNG
Thọ dân Hoàng Viết Quýnh sinh năm Ất Tỵ (1725) niên canh Giáp Thân đúng 100 tuổi.
Tử : Hoàng Khắc Tuân, đệ nhất chi, niên canh Quý Dậu, thất thập ngũ tuế (75)
Tử : Hoàng Kim Chúc, đệ nhị chi, kim tằng tôn tiến, Thập nhất viên, tú tài, niên canh Ất Hợi, thất thập tam tuế.
Tử : Hoàng Doãn Dịch, đệ tam chi, do dị cố niên canh Kỷ Sửu, ngũ thập ngũ tuế
Tử : Hoàng Viết Dật, đệ tứ chi, do dị cố niên canh Canh Thìn, thập ngũ tuế
Tôn : Hòang Khắc Chu, niên canh Kỷ Dậu, tam thập cửu tuế.
Tôn : Hoàng Kim Quát, niên canh Giáp Dần, tam thập tứ tuế.
Tôn : Hoàng Doãn Khiêm, niên canh Nhâm Tý, tam thập lục tuế.
Tôn : Hoàng Viết Khiển (Truy) niên canh Mậu Thìn, nhị tuế
Tằng : Hoàng Khắc Thoan, niên canh Mậu Dần, nhị thập nhị tuế.
Tằng : Hoàng Khắc Tiềm, niên canh Quý Dậu, thập ngũ tuế.
Tằng : Hoàng Khắc Toại, niên canh Ất Hợi, thập tam tuế.
Tằng : Hòang Khắc Dai (Thấu ) niên canh Ất Hợi, thập tam tuế.
Huyền : Hoàng Khắc Điệt, niên canh Bình Tuất, nhị tuế (Trưởng tộc).
Minh Mệnh tứ niên,
Chính nguyệt, thập nhị nhật
Thần : Nguyễn Khoa Hào
Nguyễn Nguyên Huy
Tri phủ Diễn Châu:
Nguyễn Huy Chuẩn
SẮC TỨ
DỊCH DIỆP DIỄN TƯỜNG
祥衍葉奕
(Con cháu đời đời hưởng phúc lành)
Hoàng Khắc Quýnh
Nghệ An trấn, Diễn Châu phủ
Đông Thành huyện, Hoàng Xá xã,
Hoa Lâm thôn
Nhân Thọ : Linh Bách Tuế
Ngũ Đại Đồng Đường
Tinh Thông – Dũng Biểu
Thăng Bình Nhân Thuỵ
Minh Mệnh bát niên ngũ nguyệt cát nhật
Thượng hạ : Lưỡng long triều nguyệt,
Tả hữu : Nhất long nhập biển nội
Gia phả cụ Hàn ghi: Chính thất Lê Thị Phái, cùng làng mất. Sau lấy Lê Thị Trước sinh Viết Trang, Viết Đoan, Thị Đào, Thị Lượng, Thị Luân, Viết Bản, Viết Sa, Thị Dục đều bất hạnh cả.
Trong bản gia phả của cụ Khắc Điển ghi rõ ràng hơn: Tổ tỉ Võ Thị Hiệu từ nhụ nhân. Trắc thất Võ Thị Hành, sinh Khắc Tuấn, Khắc Truy/Tiềm (克 追), Khắc Tạo, Khắc Sính. Lại lấy Võ Thị Phương, người Phúc Thiêm, sinh Khắc Tùy, Khắc Cận đều mất.
Bản gia phả cụ Hàn ghi: Tổ tỉ: Lê Thị Đề, người Vân Tập, sinh Khắc Trác, Thị Thiềm, sau sinh tiếp Khắc Hùng, Khắc Thiệu, Khắc Chiêu, Khắc Tiêu đều mất
Bản gia phả cụ Hàn ghi rõ hơn: Sinh Khắc Hộ, Khắc Chi (mất), Khắc Độ, Thị Thinh (lấy Thái Quý Trưng người Quảng Hà), Thị Ta (lấy Trần Cẩn người Viên Minh)
CÂU ĐỐI NHÀ THỜ ĐẠI TÔN
1 - Minh đức dạ viện hy
Kế tự kỳ hoàng chi
2 - Nhất phiệt tại u tiền
Thất thế khả quan đức
3 - Bách niên quốc khánh thăng bình thuỵ
Vạn cổ gia lưu dịch thế tường
4 - Vạng tích việt bồi bằng thế trạch
Lai từ thừa dực chấn gia thanh
5 - Chí bình cách thiện tàng trường thọ
Tập khánh phồn xương đế giản thanh
6 - Đồng đường vinh tục vân những phúc
Kim biển trường lưu tích tự hương
7 - Mộc bản cổ nguyên thiên thiên thuỷ niệm
Xuân sương thu lỗ bách hồ tâm
8 - Đình tri hiếu đệ gia đình bảo
Bất thiểm bao vinh nghiệp bồ hoa
9 - Kim biển tinh phong quang nhật biển
Biểu tường tu ấp thọ giang sơn
10 - Tính kỳ môn thừa hậu hoàng chi dạ huệ
Nhập thái miếu tụng niệm tiền nhân thanh phổ
11 - Nhất môn quan đái cơ thành lý
Bách thế vinh nhưng vĩnh hữu từ
12 - Thế đức vĩnh truyền Giang Hạ quận
Dịch ân hương dẫn Ngọc Lâm thôn
13 - Đường truyền quách thị thân nhân trạch
Tống biểu giang châu hiếu nghĩa môn
ĐỐI ĐIẾU TANG LỄ
(Cố Hoàng Viết Quýnh thọ 102 tuổi)
1- Cổn hoa tứ tự vinh gia huệ
Mặc lý thiên thu ngượng cảnh hành
2- Thọ miếu bách linh triêm quốc trung
Khánh lưu dịch diệp điển gia trường
3 - Bách niên thượng thọ vu kim tiễn
Ngũ đại đồng đường tự cổ nam
4 - Bách niên đế thượng gia tôn vấn
Nhất bảo thiên hồ thế hậu duy
5 - Hốc trục bạch lương du cản mãn
Muội duy bích ngoạ tiện liên kì
6 - Hải ốc trần hoa mê viễn vọng
Thao trường thảo lịch vất hà tư
7- Ban y do tích nhất tiền lý
Huệ trướng hà canh sóc ấn hàn
8 - Ngân tê thiên án tri di ốc
Đơn thuận thuần hoa hốc nạn lưu
9 - Cơ đệ tang thương chung thế cận
Nhất hồ bồng lại hoạch hoạch tiên công
10 - Đồng đường thử hậu diên gia khánh
Kết thảo hà thời báo quốc ân
11 - Phân hương thử địa lai thời tiếu
Hoè quế hà phương khử lỗ trường
12 - Cửu bát dị tình đại tạo bát (hoá)
Thế nhân hà tự khánh thăng bình
13 - Thiên viên nhất mộng mè cư diệp
Độc quốc tam canh lạc xã nhân
14 - Điều nhị quốc niênhoà nhất mộng
Nạn vu thốn thảo báo chi xuân
15 - Hà thời hoè hậu thăng bình thuỵ
Thử nhật chi hoài cảm chí tình
16 - Thiên thổ ảnh đôi do hữu cảm
Gia thành minh tích cánh hà kề
17 - Bồng đảo ngọc tiên quy nhất đớn
An khang vinh phiệt ngoạ thường kim
(17 câu đối điếu đều dùng bằng vải màu, chữ mực nho)
KỴ NHẬT TIÊN TỔ
Tiên tổ |
Kỵ nhật |
Tiên Tổ Hoàng Trục |
16 – 6 |
Tiên Tổ Hoàng Nhạc |
|
Tiên Tổ Hoàng Công Miễn |
|
Tiên Tổ Hoàng Pháp Thắng |
12 – 7 |
Tiên Tổ Tỷ Thiện Hạnh |
08 – 01 |
Tiên Tổ Hoàng Chân Nhan |
09 – 01 |
Tiên Tổ Hoàng Bản Tính |
16 – 02 |
Tiên Tổ Tỷ Từ |
1 – 9 |
Tiên Tổ Hoàng Thuận Đức |
10 – 4 |
Tiên Tổ Tỷ Thư Nhân |
14 – 12 |
Tiên Tổ hoàng Huyền Cơ |
06 – 02 |
Tiên Tổ Tỷ Từ Ân |
28 – 8 |
Tiên Tổ Hoàng Liêm Bình |
|
Tiên Tổ Tỷ Thái Thị Tâm |
28 – 01 |
Tiên tổ Hoàng Viết Học |
10 – 11 |
Tiên Tổ Hoàng Viết Chính |
|
Tiên Tổ Hoàng Thiện Đạo |
20 – 3 |
Tiên Tổ Tỷ Nguyễn Thị Nậm |
20 – 10 |
Tiên tổ Hoàng Xuân Mãi |
29 – 6 |
Tiên tổ Tỷ Lưu Đoan Chỉ |
23 – 10 |
Tiên tổ Hoàng Viết Thuật |
02 – 12 |
Tiên Tổ Tỷ Đặng Thị Thiệu |
19 – 10 |
Tiên Tổ Hoàng Viết Quýnh |
07 – 10 |
Tiên Tổ Tỷ Nguyễn Thị Khiết |
24 – 12 |
Tiên Tổ Hoàng Khắc Tuân |
13 – 3 |
Tiên Tổ Hoàng Kim Chúc |
19 – 8 |
Tiên Tổ Hoàng Doãn Dịch |
15 – 7 |
Tiên Tổ Hoàng Viêt Dật |
10 – 8 |
MỘ PHẦN TIÊN TỔ
1. Mộ Tổ Liêm Bình ở rộc Vinh, cung Tân Nho, gần cầu xi măng làng Phú Hậu.
2. Mộ Tổ Thiện Đạo ở cồn Phái, rú Mụa. Mộ Tổ bà ở bên Cồn Nhện xóm Quảng Tây.
3. Mộ Tổ Xuân Mãi ở cồn Cá Gáy xóm Mới.
4. Mộ Tổ Viết Quýnh ở cạnh đình Câu xóm Trùm, hiện nay ở cạnh trường cấp 1 xã Diễn Thắng.
5. Mộ Tổ Viết Học ở Nương Tháng, mộ chiêu hồn, tiểu bằng gỗ vông, xương dâu.
Những ngôi mộ liệt kê trên, đã rước (di dời) tất cả về đặt tại nghĩa trang làng Quảng Hà, cánh đồng xóm Hà Tây.
Gia phả cụ Hàn (Hoàng Khắc Điển) biên soạn năm 1912
Ông Hoàng Điệng chép lại và có bổ sung các đời sau, ông Nguyễn Thoan, chắt ngoại của cụ Ngọc Quý dịch
HOÀNG GIA THẾ THỨ PHỔ KÝ
(Ghi chép tham khảo)
Thỉ tổ khảo tiền, Hoàng Quý công tự Pháp Thắng
Thỉ tổ tỉ hiệu Thiện Hành nhụ nhân
Tiên tổ khảo tiền Hoàng nhất lang tự Chân Nhan
Tiên tổ tỉ hiệu Từ Thiện nhụ nhân
Tiên tổ khảo tiền Hoàng nhất lang tự Bản Tính
Tiên tổ tỉ hiệu Từ Thân nhụ nhân
Tiên tổ khảo tiền Hoàng nhất lang tự Thuận Đức
Tiên tổ tỉ hiệu Từ Nhân nhụ nhân
Tiên tổ khảo tiền Hoàng nhất lang tự Huyền Cơ
Tiên tổ tỉ hiệu Đặng Từ An
Sinh trưởng nam tự Liêm Bình. Lại sinh Thị Đàm, Thị My, Thị Ngân, Thị Điều, Thị Nại/Mai, Viết Đạt, Thị Đôi, Viết Hữu, Viết Nhân, Thị Giai tảo tốt
Tiên tổ khảo, tiền triều bản phủ, hiệu sinh Hoàng quý công, tự Liêm Bình, thuỵ Yên Tĩnh tiên sinh (con cụ Huyền Cơ).
Tiên tổ tỷ Thái Thị hiệu Từ Tâm, huý An
Sinh: Viết Học, Viết Chính, Viết Tuyển,Thiện Đạo, Thị Diệp, Thị Tước, Thị Tự (Thị Tước, Thị Tự mất sớm)
Ông mất 5/4 mộ tại Nho Lâm
Bà mất 18/1 mộ tại Quảng Hà, Diễn Cát, Diễn Châu, Nghệ An
Tiên tổ bá tiền triều bản phủ hiệu sinh Hoàng quý công tự Viết Học (con cụ Liêm Bình). Ông sinh sống nơi xa xứ, không hiểu sao đời Lê Chính Hoà 19 (1699) lại có tên bia đá tại Quảng Hà tại đầu xứ niên. Bản tộc đã thỉnh pháp sư về chiêu hồn cải táng tại Nương Tháng xứ.
Tiên tổ tỉ hiệu Từ Duyên nhụ nhân.
Tiên tổ bá tiền Hoàng Nhị lang tự Viết Chính
Tiền tổ cô Hoàng nhất nương Từ Diệp
Tiền tổ bá Hoàng tam lang tự Viết Tuyển
Chính thất Lê Thị Phái, cùng làng mất
Sau lấy Lê Thị Trước sinh Viết Trang, Viết Đoan, Thị Đào, Thị Lượng, Thị Luân, Viết Bản, Viết Sa, Thị Dục đều bất hạnh cả.
Tiên tổ khảo tiền Hoàng quan viên phụ Hoàng quý công tự Thiện Đạo. Mất ngày 22/3 mộ tại Nho Lâm
Tiên tổ tỉ Nguyễn Thị từ Ân mất 22/10 mộ tại Quảng Hà
Kết thất Nguyễn Thị Khoa người Quảng Hà, sinh 1 trai là Hoàng Viết Mại (Xuân Mại). Gái là Thị Dậu, Thị Trinh, Thị Hoà, Thị Thuận
- Thị Dậu lấy Cao Đình Chính người Nho Lâm, mất 9/8
- Thị Thuận lấy Lê Danh Sĩ người cùng thôn
- Thị Hoà lấy người người họ Trần ở Quảng Hà nay Trần Nhượng thờ
Tiên tổ khảo tiền Tướng sĩ LangTây hồ phó sở sứ kiêm Trùm trưởng Hoàng quý công tự Xuân Mại thuỵ Đôn Hữu phủ quân, huý Víết Tường, con cụ Quan viên phụ (Thiện Đạo). Ông sinh năm Ất Dậu (1705), thọ 71 tuổi, mất 29/6 Ất Mùi (1775).
Tiên tổ tỉ Đoan Chính (Trần Thị Nghệ) mất 12/10 Mậu Tuất thọ 76 tuổi. Tái thú Lê Thị Nữ người cùng làng sinh Hoàng Tương rồi mất. Kế lấy Lưu thị người thôn Phú Hậu xã Thọ Sơn sinh ra Viết Thuật, Viết Quýnh, Thị Đáp
Tiên tổ khảo Tướng sĩ lang thừa Hoa điện trị sự kiêm trùm trưởng Hoàng quý công tự Viết Thuật thuỵ Chân thực phủ quân, huý Hoạt. Sinh năm Đinh Tỵ, mất 2/12 thọ 55 tuổi, mộ tại Quảng Hà
Tiên tổ tỉ Đặng thi hiệu Từ Đức sinh 1 nam 9 nữ, bà mất 19/10. Sinh Hoàng Khắc Du, huý Quỳ lên 14 tuổi thì mất. 9 con gái gồm:
Thị Vinh lấy Nguyễn Thọ Mạch người Tràng Thân
Thị ...lấy Võ Quang Lai người Nho Lâm
Thị Đương lấy Nguyễn Văn Đối người Yên Lãng
Thị... lấy Võ Quý người Hữu Luật, Diễn Bình Diễn Châu, Nghệ An
Thị Điểm lấy Hoàng Quý Châu người Quảng Hà sinh ra cai tổng Trân, tôn tú tài Hoàng NăngTĩnh
....
Cao tổ khảo tiền Lê triều Tướng lang thừa hoa điện Tri sự lịch thụ tiến công thứ lang vĩnh khang huyền thừa lăng trưởng khánh đồng tri phủ kiêm 102 tuổi, ngũ đại đồng đường Hoàng Quý Công Viết Quýnh. Tự Siêu Thăng, thuỵ Hiển Khánh. Ông sinh năm Ất Sửu, mất 7/10 Kỷ Sửu (1829) thọ 102 tuổi, mộ tại Quảng Hà. Tháng 7 Canh Dần nhờ Lê Sắt tri huyện Hương Khê người cùng làng tìm nơi đất tốt tại Nho Lâm di lập mộ chí.
Tỉ là Thị Đàm, thôn Đan Trung sinh Bính Dần (1746), mất ngày 24/11 năm Kỷ Mão (1819) thọ 74 tuổi
Sinh hạ 4 con trai là:
1. Hoàng Khắc Tuân (1765-1838)
2. Hoàng Kim Chúc (1767-1833)
3. Hoàng Viết Địch (1769-1825)
4. Hoàng Viết Dật (1772-1805)
Sau sinh thêm 2 con trai (mất sớm) và 6 nữ là:
1. Thị Đoan, chồng là Phạm Sĩ Chiến ở Mỹ Đức
2. Thị Lương, chồng họ Nguyễn ở Trung Phường
3. Thị Ân, chồng học Hoàng ở Quảng Hà, cùng xóm
4. Thị Tập, chồng Nguyễn Hữu Ân ở Đan Trung
5. Thị Trinh chồng là Hoàng Tram ở Quảng Hà
6. Thị Toàn, chồng là Tạ Hữu Thi ở Bút Điền
Năm Cảnh Hưng thứ 14, cụ được sắc phong Ngũ đại đồng đường, cấp ruộng Tế điền, Kỵ điền, Học điền cho dòng họ.
CHI TRƯỞNG
Cao tổ khảo tiền tướng sĩ lang thừa điện trị sự, húy Phong, Hoàng quý công tự Khắc Tuân, thụy Thuận Đức phủ quân. Sinh Ất Dậu (1765), mất ngày 13/3 năm Mậu Tuất (1838), thọ 74 tuổi
Cao tổ tỉ Hoàng Thị Hảo, sinh hạ Hoàng Khắc Chu, Thị Ninh, Thị Thái
Kế thất Hoàng Thị Bài, sinh Khắc Đệ, Thị Điểu, Thị Mai.
Tổ khảo tiền thụ tương thần kỳ thọ Hoàng quý công tự Khắc Chu, thụy Thanh Hậu phủ quân, con trưởng cụ Khắc Tuân
Tổ tỉ Võ Thị Hiệu từ nhụ nhân
Trắc thất Võ Thị Hành, sinh Khắc Tuấn, Khắc Truy, Khắc Tạo, Khắc Sính
Lại lấy Võ Thị Phương, người Phúc Thiêm, sinh Khắc Tùy, Khắc Cận đều mất
Tổ khảo tiền thập lý hầu kiêm ưu binh Hoàng nhị lang tự Khắc Đệ, thụy Cẩn Cán phủ quân, con thứ cụ Khắc Tuân
Tổ tỉ Tạ thị hiệu Từ Tích nhụ nhân, sinh Khắc Toản, Khắc Quản, Thị Diệu, Thị Ninh. (Thị Ninh lấy Võ Quý Phẩm, người Hậu Luật, Diễn Bình, Diễn Châu, Nghệ An)
Tổ khảo tiền Hoàng đề bản thôn Văn Hội, trưởng hội kiêm trùm trưởng đăng kỳ lão Hoàng mạnh đường Khắc Tuấn, thụy Cương Thận phủ quân, con trưởng của cụ Chu
Tỉ tổ Tạ Thị Tiến, người Bút Điền, sinh Thị Thanh, Khắc Điệt, Khắc Ngạn, Khắc Chi, Khắc Dụng, Khắc Tố, Thị Công, Thị Cửu
Phụ lục
Tổ khảo Khắc Truy (con thứ cụ Khắc Chu)
Tỉ Võ Thị Sâm người Hậu Luật, sinh Khắc Khiển, Khắc Viễn, Khắc ??
Khắc Khiển lấy Hoàng Thị Xuân cùng thôn sinh Thị Nga lấy Trần Lai ở Quảng Hà.
Tổ khảo Khắc Tạo (con thứ 3 cụ Khắc Chu)
Tỉ Trần Thị Trường, người Quảng Hà
Sinh Khắc Hoằng, Khắc Tác, Khắc...,Thị .., Thị Hoà, Thị Nhân, Khắc Kỳ (mất)
Tổ khảo Khắc Sính (con thứ 4 cụ Khắc Chu)
Tỉ tổ Nguyễn Thị Hường, người Quảng Hà
Sinh Khắc Đạt, Khắc..(mất), Thị ..., Thị Định
Tổ Khảo Khắc Toản (con trưởng cụ Khắc Đệ)
Tỉ tổ: Tạ Thị Hằng, người Bút Điền
Sinh Thị Bá, Khắc Thừa
Tổ Khảo Khắc Quán (con thứ cụ Khắc Đệ)
Tỉ tổ Lê Thị Huấn người cùng thôn
Sinh Khắc Khán, Khắc.. (mất), Thị Ly, Khắc Quyển
(Khắc Khán lấy Đặng Thị Bảng ở cùng quê Quảng Hà sinh 3 gái.
Khắc Quyển lấy Trần Thị Hoan ở cùng quê Quảng Hà sinh Khắc..., Thị Thìn, Khắc Cu).
Kế thất Lê Thị Huy người Cổ Văn, sinh Khắc Biện, Khắc Bộ
Tổ cô Thị Diêu lấy người cùng thôn là Trác sinh ra Trọng Chinh, Trọng Đạt, Trọng Khoát.
Tổ khảo Khắc Điệt (con trưởng cụ Khắc Tuấn), tự Hậu
Tổ tỉ: Lê Thị Đề, người Vân Tập
Sinh Khắc Trác, Thị Thiềm, sau sinh tiếp Khắc Hùng, Khắc Thiệu, Khắc Chiêu, Khắc Tiêu đều mất
Khắc Trác lấy người cùng thôn sinh Thị Xứ, Thị Mộ, Khắc Truyền, Thị Yêm
Tổ khảo Khắc Ngạn (con thứ 2 cụ Khắc Tuấn). Ông đi việc quân, năm Mậu Dần Tự Đức 31 (1878) giữ chức Xích đội Chánh lục phẩm, sau bị bệnh về hưu.
Tỉ tổ Thị Sa người Vân Tập
Sinh Khắc Doãn (được phong Viên tử, lấy vợ cùng làng sinh Khắc Khoan, Thị Đông), Khắc Cung (lấy vợ cùng làng sinh Thị Chi), thị Yến.
Tổ Khảo Khắc Dụng (con trai thứ 4 cụ Khắc Tuấn)
Tỉ tổ người Xuân Sơn
Sinh Khắc Hành
Tổ Khảo Khắc Tố (con trai thứ 5 cụ Khắc Tuấn)
Tỉ tổ người cùng làng
Sinh Khắc Hộ, Khắc Chi (mất), Khắc Độ, Thị Thinh (lấy Thái Quý Trưng người Quảng Hà), Thị Ta (lấy Trần Cẩn người Viên Minh)
ĐỆ NHỊ CHI
(Từ đường tại Hoàng Khắc Nghiêm)
Tằng tổ khảo tiền Lê chức Hoàng long điện, tri lăng tiến công thứ lang thần vệ, Tri bộ lịch trùm trưởng kỳ thọ lão Hoàng quý công tự Kim Chúc (金燭), tự Kim Vân, thuỵ Ôn Lượng phủ quân. Con thứ 2 cụ Hiển Khánh (Viết Quýnh). Sinh năm Đinh Hợi (1767), mất ngày 19/8 năm Nhâm Thìn (1833), thọ 66 tuổi. Mộ ông bà táng ở Quảng Hà
Tằng tỉ tổ Võ Thị, hiệu Từ Triêm người Viên Minh, huý Thúc Thân, Phúc hậu nhụ nhân. Bà sinh năm Quý Tỵ (1773) mất 11/5 năm Tân Dậu (1861) thọ 90 tuổi
Tri bộ phụng hai đạo sắc văn.
Sinh hạ: Khắc Quát, Thị Phong, Thị Đích, Khắc Tấn, Thị Đề, Thị Đương, Khắc Đạt.
Trưởng nam cụ Kim Chúc, tiến ấm nhiêu nam Hoàng quý công tự Hoàng Khắc Quát, huý Bá, thuỵ Chất Cẩn phủ quân. Sinh năm Giáp Dần (1794), mất 22/3/1818, thọ 24 tuổi
Vợ là Nguyễn Thị Thúc Giao nhụ nhân, quê ở thôn Vân Đàm, mất ngày 15/6. Sinh Khắc Toại, Khắc Hàm (Hạp)
Khắc Toại (Trưởng nam cụ Khắc Quát).
Vợ là Nguyễn Thị Tính, người Nho Lâm. Sinh Thị Phương, Khắc ??
Khắc Hàm (Hạp) (遝?)
Vợ là Hoàng Thị Tú người Phú Lâm, sinh Thị Kỳ, Khắc Nhạ.
Kế thất Đặng Thị Nghi người Phù Diên??, sinh Khắc Giá, Khắc Quế, Khắc Đãi, KhắcThành, (Thị Kỳ, Khắc Giá mất).
Khắc Nhạ, con trưởng cụ Khắc Hàm (Hạp)
Vợ là Nguyễn Thị Thọ, người Trung Phường
Sinh Khắc Nghiêm lấy vợ người Văn Vinh, sinh Thị Mận, Khắc Lịch. Mẹ tái giá về Hào Kiệt
Khắc Quế, con thứ 2 cụ Hàm (Hạp)
Vợ là:... người ở Bút Điền
Sinh Khắc Căn, Khắc Đồng. Khắc Căn lấy vợ người ở Bút Điền sinh Bản.
Hoàng Khắc Đãi, con thứ 3 cụ Hàm (Hạp)
Vợ Trần Thị Phái, người Quảng Hà. Sinh Thị Chiến, Khắc Nghĩa (Ngãi), Khắc Cầu (Châu), Khắc Bộ, Thị Yêm
Khắc Dụng, con thứ 4 cụ Khắc Hàm (Hạp)
Vợ là cao Thị Quý, người Phúc Thiêm
Sinh Thi ..., cha chết, mẹ cải giá.
Thị Trưng, trưởng nữ của cụ ..., chồng là Lê Trọng Quế cùng thôn, sinh Trọng Chất, Trọng Cát.
Thị Phương, thứ nữ của cụ ..., chồng Nguyễn Văn Vịnh cùng làng.
Tiền lý hầu kiêm trùm trưởng Hoàng quý công tự Hoàng Khắc Tấn, thuỵ Thanh Thận phủ quân, con thứ 2 cụ Tri bộ (Kim Chúc). Sinh năm Đinh Tỵ (1797), mất ngày 29/8/1846 thọ 50 tuổi
Vợ là Võ Thị Bình, hiệu Từ Bình, quê ở Nho Lâm, Diễn Thọ, Diễn Châu Nghệ An. Sinh Khắc Tài, Khắc Dân, Khắc Vận, sau sinh Thị Ký, Thị Đắc đều mất.
Hoàng Khắc Tài, con trưởng cụ Hoàng Khắc Tấn,
Vợ là Nguyễn Thị ... , ở Bút Điền, sinh ra Thị Liễu, Thị Đào, Thị Thông, Khắc Kiểm, Khắc Thận
- Thị Liễu lấy chồng Lê Trọng Vi làm chánh tổng cùng thôn.
- Khắc Kiệm đỗ tú tài khoa Tân Mão, Thành Thái năm thứ 3 (1891), lãnh cai hộ hạng. Lấy vợ là Nguyễn Thị Ngân người ở Vân Tập sinh ra Khắc Côn, Khắc Giới, Khắc Đồng, Khắc Tiết và 2 gái
- Khắc Thận lấy vợ là Phạm Thị Chân con quan tế ở Phượng Lịch sinh Khắc Phác, Khắc Thao, Khắc Mao và 3 nữ
Hoàng Khắc Dân, con trai thứ 2 cụ Khắc Tấn
Vợ là Nguyễn Thị Trường, người ở Vân Dàm ??, sinh Thị Trưng, Thị Châu, Thị Trí, Thị Tín. Lấy vợ kế là Lê Thị Lạng người Quảng Hà sinh ra Khắc Uý và 1 con gái.
Khắc Uý lấy vợ người Quảng Hà, sinh Khắc Sinh, Khắc Yên/An. Năm Giáp Thìn ông bỏ đi xa xứ, vợ cải giá.
Hoàng Khắc Vận, con trai thứ 3 cụ Khắc Tấn
Vợ là Tạ Thị Ấn, người ở Bút Điền, sinh Khắc Thái, Thị Cương. Vợ kế người Nho Lâm sinh 2 gái và Khắc Thịnh/Thạnh.
Khắc Thái lấy thị Mỹ người Bút Điền sinh Thị Ký, Khắc Dơn/Dao, Thị Em. Khắc Dơn lấy vợ người Xuân Viên sinh ra Thị Cư, Thị Tựu, Hoàng Ca.
Khắc Thịnh/Thạnh lấy vợ cả người Quảng Hà sinh Khắc Trị, Khắc Cu. Vợ kế người ở Phú Hậu, sinh Thị Hy, Hoàng Vượng, Hoàng Thuần
Năm bà con gái của cụ Tri Bộ (Kim Chúc)
1. Thị Phong, trưởng nữ lấy Tạ Hữu Trọng ở Bút Điền
2. Thị Đề lấy Nguyễn Kính ở Văn Tập
3. Thị Đích lấy Phạm Sĩ Hiển ở Mỹ Đức
4. Thị Đương lấy Hoàng Quý Giáp ở Quảng Hà
Sau đây là tiểu chi trưởng tôn Hoàng Ngọc Đĩnh (玊 珽)
Hiển tổ khảo Hoàng quý công Hoàng Khắc Đạt (克 達) tự Minh..., thuỵ Ôn Hậu (Còn gọi là cố Thơ, là con út cụ Tri Bộ-Kim Chúc). Sinh năm Giáp Tí 1804 (Gia Long 3), mất 1/12-1865 (Ất Sửu-Tự Đức 17 ??). Đề lĩnh tiên phong cung tập võ vệ, chánh thơ lại. Cụ theo nghiệp văn nhưng năm Minh Mệnh 19 (1838) "Tòng nhung vụ" đến năm Thiệu Trị thứ 3 (1843) lại trở về dòng thư lại, năm Tự Đức thứ 6 trở về quê hương phụng dưỡng mẹ già, giữ chức Văn Hội, Trưởng Hội, Trùm Trưởng xã thôn. Hương kỳ lão.
Hiển tổ tỉ người họ Hoàng, huý Từ Đích, ở Phú Lâm, sinh năm 1801 (Tân Dậu), mất năm 1881 (Tân Tỵ). Bà sống rất nhân hậu, cần kiệm mà dựng nên cơ nghiệp được xóm làng rất nể trọng. Hơn 10 năm nuôi thầy dạy dỗ các con đều trải qua trường, trúng nhất nhị trường. Cho đến năm Kỷ Hợi (1839) mới hoàn thành và cho đến nay thành lập các phòng đọc sách lớn nhỏ.
Ông bà đều cát táng tại Quảng Hà
Sinh hạ các con:
1. Trưởng nữ Hoàng Thị Kiên, sinh ngày 23/6 năm Bính Tuất (1826), lấy chồng là Tạ ... ở xóm Hoà Lạc, Diễn Cát, Diễn Châu, Nghệ An.
2. Trưởng nam Hoàng Ngọc Liễn, sinh ngày 6/2 năm Kỷ Sửu (1829)
3. Thứ nữ Hoàng Thị ... (mất sớm), sinh 20/7 năm Nhâm Thìn (1832)
4. Thứ nam Hoàng Ngọc Dám, sinh 8/6 năm Giáp Ngọ (1834). Mất 14/5/ Tân Dậu (1921) thọ 88 tuổi.
5. Quý nam Hoàng Ngọc Quý, sinh 1/6 năm Đinh Dậu (1837)
Tổ khảo Hoàng Ngọc Liễn, trưởng nam của cụ Khắc Đạt. Sinh ngày 6/2 năm Kỷ Sửu (1829), mất ???. Vợ là Tạ Thị ?? người xóm Bút Diền, sinh năm Tân Mão (1831), sinh ba con đầu đều mất sớm, tiếp tục sinh hạ:
1. Ngọc Đĩnh, sinh Quý Sửu (1853)
2. Ngọc Cảnh, sinh năm Ất Mão (1855)
3. Thị Tế, sinh năm Kỷ Mùi (1859)
4. Thị Đường, sinh năm Tân Dậu (1861)
5. Khắc Du, sinh năm Giáp Tý (1864, mất sớm)
6. Thị Độ, sinh năm Đinh Mão (1867)
7. Ngọc Châu, sinh năm Kỷ Tỵ (1869)
8. Thị Huy, sinh năm Nhâm Tuất (1872, mất sớm)
9. Khắc Cầu, sinh năm Giáp Tuất (1874)
10. Khắc Chiêu, sinh năm Đinh Mùi (1877, mất sớm)
Hoàng Ngọc Đĩnh (玊 珽), con trưởng của cụ Ngọc Liễn, sinh năm 1853 (Quý Sửu).
Vợ cả là Tạ Thị Khánh, quê ở làng Bút Điền-Diễn Cát-Diễn Châu-Nghệ An. Sinh Ngọc Đình, Thị Phương, Thị Lai đều mất sớm, lại sinh Khắc Thọ, Khắc Khang
Vợ kế là ???, quê cũng ở làng Bút Điền, sinh Khắc Doạt, Khắc Cán (mất sớm), Khắc Thập, Thị Ân
Hoàng Ngọc Cảnh (玊璟), con trai thứ của cụ Ngọc Liễn, sinh năm Ất Mão (1855). Vợ là Lê Thị Xơng người cùng làng. Sinh hạ Thị Lưu, Thị Diện, Khắc Dần
Hoàng Ngọc Châu (玊 珠 ), sinh năm Kỷ Tỵ (1869), con trai út của cụ Ngọc Liễn.
Vợ cả là Lê Thị Tảo, quê ở .., sinh hạ Thị Chúc, Thị Thanh, Thị ...
Vợ kế là Nguyễn Thị Nhi quê ở..., sinh hạ Hoàng Ngọc Khô, Hoàng Ngọc Ngô, Hoàng Ngọc Bích, Thị Yên
Hiển tổ khảo tiên khoa viên phụ Hương khoa, thí sinh lịch thư bản thôn lục giáp Văn hội, sĩ hội, trương bản vọng thất tuần Hoàng trọng dương Hoàng Ngọc Giám (黄玊 鑑), hiệu Kính..., thuỵ Đôn Cẩn phủ quân, tự Hữu Bằng, huý Dực. Con trai thứ 2 cụ Khắc Đạt, sinh 8/6 năm Giáp Ngọ (1834), mất 14/5/ Tân Sửu (1901) thọ 88 tuổi.
Hiển tỉ Hoàng Môn chính thất Tạ Thị hiệu Đoan Chính nhụ nhân. Quê ở ... Bà sinh năm Mậu Tuất (1838), mất 29/11 Đinh Sửu (1877), thọ 40 tuổi, mộ tại Phú Lâm.
Sinh hạ:
1. Trưởng nữ Hoàng Thị Tầm sinh năm 1858 (Mậu Ngọ). Lấy chồng là Lê Dám, tự Địch người cùng làng sinh hạ: 1- Lê Thị Châu -sinh 1878 (Mậu Dần) 2- Lê Thị Lương-sinh 1879 (Kỷ Mão).
2. Trưởng nam Hoàng Khắc Điển sinh năm Quý Hợi (1863).
Hiển tổ khảo tiền Tú tài hàn lâm viện năm Quý Mão (1903) Hoàng Khắc Điển (黄克典), thuỵ Trung Thận. Quan viên hai huyện Đông-Yên, Văn Hội. Trưởng hội nhi Tổng Quan Thái. Môn tăng hàn lâm viện thư chiếu. Sinh năm 1863 (Quý Hợi), mất năm ??? (còn gọi là cụ Hàn)
Vợ:
Bà cả Hoàng Thị Tuân, quê ở Phú Trung, xã ??. Sinh năm 1861 (Tân Dậu), mất 10/9/1897 (Đinh Dậu), thọ 37 tuổi.
Sinh:
1. Hoàng Hiến sinh năm Canh Thìn (1880)
2. Thị Huyền sinh năm Quý Mùi (1883)
3. Hoàng Yến sinh năm Ất Dậu (1885)
4. Thị Thanh sinh năm Tân Mão (1891)
5. Hoàng Từ (tự Hưng) sinh năm Giáp Ngọ (1894)
Bà kế Ngô Thị Ân. Quê ??, sinh năm ?? Mất 22/5/??. Lấy cụ Điển năm 1903.
Sinh:
1. Thị Khánh sinh năm Kỷ Tỵ (1905)
2. Khắc Luyến sinh năm Đinh Mùi (1907)
3. Thị Yêm sinh năm ???
Hiển tổ khảo bản tỉnh khoá sinh huý Hoàng Hiến (黄 憲), tự Thúc Độ, hiệu Ngọc Hiên, thuỵ Cẩn... sinh năm Canh Thìn (1880), mất ngày 14/10 năm Nâm Tý (1912) thọ 33 tuổi. Con trai cả cụ Hoàng Khắc Điển.
Hiển tỉ Hoàng Thị hiệu Từ ... nhụ nhân
Sinh Hoàng Nhẫn, Hoàng Thiếp
Hiển tổ khảo tiền hương Bộ, Đông Y xã Hoàng mạnh đường Hoàng Khắc Nhẫn (黄克 忍) (con ông Hoàng Hiến, còn gọi là ông Bộ Thuần), thuỵ Chất Cẩn phủ quân
Tỉ Trần Thị Thường, thuỵ Trung Hậu
Sinh Thị Thuần, Thị Nhuần, Thị Tần, Hoàng Ngọc Thầm (sinh 14/4/1940)
Hoàng Thiếp (黄 帖), thứ nam của ông Hoàng Hiến, sinh năm Nhâm Tý (1912), mất năm 198?
Vợ là Tạ Thị Sơn, sinh năm ... mất năm 20?? người ở xóm Hoà Lạc, Diễn Cát, Diễn Châu Nghệ An.
Sinh ra: Thị Trâm, Thị Thanh, Thị Thắm, Thị Thơm, Ngọc Thức, Ngọc Thảo
Lệnh thúc khoá sinh Hoàng trọng đường Hoàng Văn Yến, thuỵ Cẩn tiên sinh. Ông sinh năm Ất Dậu (1885) là con trai thứ 2 cụ Khắc Điển
Tỉ người họ Tạ thôn Bút Diền, hiệu Từ Huy
Vợ kế người họ Nguyễn thôn Phú Hậu, Diễn Phúc, Diễn Châu Nghệ An sinh Thị Niệm, mất
Thứ nam Hoàng Ngọc Từ, từ Hưng- Hoàng Hưng (con gọi là cụ Cửu Hưng). Sinh năm Giáp Ngọ (1894), mất năm ... Con trai thứ 3 cụ Khắc Điển.
Nguyên tòng cửu phẩm văn giai, thọ kỳ lão, chủ tịch xã, thuỵ Trung Thận phủ quân.
Tỉ chính thất Tạ thị hiệu Từ Vinh nhụ nhân
Sinh hạ: Hoàng Tốn, Hoàng Thị Xuân Phương, Hoàng Mậu
Hiển khảo tiền hiền ấm chức, đề thụ bản thôn, niên đăng kỳ lão, nho giáo trúng nhất trường tự Hoàng Khắc Luyến, thuỵ Hiền Hậu phủ quân. Sinh năm Đinh Mùi (1907) mất ...
Hiển tỉ Hoàng môn á thất Đặng thị, thuỵ Cần Mẫn nhụ nhân
sinh hạ Hoàng Loan, Hoàng Oanh, Hoàng Phượng
Hiển tổ khảo Hoàng Ngọc Quý, quý nam cụ chánh thơ lại Hoàng Khắc Đạt, huý Viễn, tự Thúc Nghĩa (còn gọi là cụ Tặng). Sinh 1/6 năm Đinh Dậu (1837), mất 2/5/????.
Vợ cả là Lê Thị Tường, con ông Lê Trọng Vũ người cùng thôn.
Sinh hạ:
1. Thị Nhiệm sinh năm 1864 (Tự Đức 17)
2. Khắc Thiện/Bá Thiện, sinh năm Bính Dần (1866 -Tự Đức 19)
3. Hoàng Kiêm, huý Miện, sinh năm Canh Ngọ (1870- Tự Đức 23)
4. Kiên Đỏ sinh năm Nhâm Thân (1872), mất sớm
5. Thị Yến sinh năm Giáp Tuất (1874)
Vợ hai Nguyễn Thị Nhiếp, lấy năm Canh Thìn (1880), quê ở....
Sinh hạ:
1. Khắc Mân sinh năm Nhâm Ngọ (1882)
2. Khắc Tảo sinh năm Giáp Thân (1884-Kiến Phúc nguyên niên), mất sớm
3. Khắc Thân, sinh năm 1886 (Đồng Khánh 2)
4. Thị .. sinh năm 1891 (Thành Thái 3), mất sớm
5. Khắc Thai sinh năm Giáp Ngọ (1894)
6. Thị Huy, sinh năm Đinh Dậu (1897), mất sớm
7. Thị Chân, sinh năm Mậu Tuất, (1898-Thành Thái 10)
Hiển tổ khảo tiền trúng nhị trường Hoàng Bá Thiện, huý... Trưởng nam cụ Ngọc Quý. Sinh năm 1866
Vợ là ... người Bút Điền
Sinh
1. Khắc Hoà, sinh năm Kỷ Sửu (1889)
2. Khắc Cu sinh năm Nhâm Thìn (1892), mất sớm
3. Khắc Trợ sinh năm Mậu Tuất (1898)
Hiển khảo Hoàng Kiêm (黄兼), huý Miện, con trai thứ 2 cụ Hoàng Ngọc Quý. Sinh năm 1870, mất năm 5/4/1939 (AL).
- Năm 1897(Đinh Dậu, Thành Thái 9) đỗ Tú Tài
- Năm 1903 (Quý Mão, Thành Thái 15) đỗ Cử nhân
- Năm 1904 (Giáp Thìn, Thành Thái 16) đỗ Tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân
- Năm 1905 (Kỷ Tỵ, Thành thái 17) bổ Hàm lâm Viện biên tu sử quán
- Năm (1906, Bính Ngọ) cáo về chịu tang cha
- Năm 1908 (Mậu Thân) trở lại kinh, bổ tri phủ Đức Thọ, năm sau dổi ra Hà Tĩnh
- Năm 1912 (Duy tân 6) làm Tri vệ chánh ngũ Công
- Năm ?? bố chánh Thanh Hoá
- Năm ?? tổng đốc tỉnh Quảng Nam
Về hưu năm 1930 ? phong Hiệp tá Đại Học sĩ, Hàm thượng thư, Thái Tử Thiếu Bảo
Hiển tỉ Hoàng Môn thứ nữ của cụ Hoàng Năng Tĩnh, tự Hoàng Thị Đoái, người cùng thôn
Sinh hạ:
1. Hoàng Lai (Nhạn), sinh năm Ất Mùi (1895-Thành Thái 7)
2. Hoàng ĐứcThi (Trấn), sinh năm Mậu Tuất (1898)
3. Hoàng Khắc Cu sinh Canh Tý (1900), mất sớm
4. Hoàng Sử sinh năm Ất Tỵ (1905)
5. Hoàng Phúc sinh năm Đinh Mùi (1907), mất
6. Hoàng Kinh sinh năm ...
Bà hai Phan Thị Hoè, người gốc ở Huế, sinh sống tại Kỳ Anh, Hà Tĩnh.
Sinh hạ
1. Hoàng Truyện sinh 1913
2. Hoàng Hương sinh ...
3. Hoàng Hội sinh sinh ...
4. Hoàng Phương sinh ...
5. Hoàng Thị Khánh sinh 1926
6. Hoàng Thị Xuân sinh ...
7. Hoàng Thị Vinh sinh ...
8. Hoàng Hạnh sinh ...
Bà ba Tạ Thi Sáu, người ở xóm .. Diễn Bình Diễn, Châu, Nghệ An, không có con.
Hiển khảo Hoàng Ngọc Mân, con trai thứ 3 cụ Ngọc Quý, sinh năm 1882, mất năm ...
Vợ là Cao Thị Đào người Nho Lâm
sinh:
1. Buồi Táo (mất sớm)
2. Thị Lâm sinh Nhâm Dân 1902
3. Khắc Sắt sinh năm Bính Ngọ 1906
Hiển khảo Ngọc Thân (còn gọi là ông Cửu Nghị), con trai thứ 4 cụ Ngọc Quý, sinh năm 1886, mất năm ...
Hiển tỉ Hoàng Thị Nhuỵ, người Phú Lâm
Sinh hạ
1. Thị Nghị sinh năm Canh Tuất (1910) mẹ của ông Thoan người dịch cuốn gia phả của cụ Hoàng Khắc Điển.
2. Khắc Trình
3. Thị Hỵ
4. Thị Hỷ
5. Thị Hải
Hiển khảo Ngọc Thai (黄玊台, còn gọi là ông Bát Thai), sinh năm 1894, mất năm ...
Vợ là ..
Sinh hạ
1. Hoàng Ngọc Danh, đi phu đồn điền cao su mất trong miền nam
2. Hoàng Thị Cam
3. Hoàng Thị Bưởi
Các con gái cụ Ngọc Quý
1. Hoàng Thị Nhiệm (còn gọi là bà Kẻ Biền), con cả của cụ Ngọc Quý, sinh 1864, mất ... lấy chồng Tạ Hữu Các, thôn Bút Điền sinh ra Thị Hồng, Hữu .. Hữu.. (cha của ông Tạ Hữu Cấp còn gọi là Bác Lộc).
2. Hoàng Thị Yến (còn gọi là bà cụ Bân), sinh 1874, lấy chồng là Lê Văn Vận người thôn Kẻ Trùm, Diễn Thắng,Diễn Châu, Nghệ An. Sinh ra Lê Văn Bân, ...
3. Hoàng Thị Chân, con út cụ Ngọc Quý, sinh năm 1898, chồng là Hoàng ... người Nho Lâm. Sinh ra Hoàng Bạt, Hoàng Thị Lê, Hoàng Huy, Hoàng Phi, Hoàng Chỉ, Hoàng Kỵ, Hoàng Nghệ, Hoàng Tám.
ĐỆ TAM CHI
Cao tổ khảo tiền tướng sĩ lang thừa hoa điện, tri sự lịch hành...xã Hoàng quý công tự Quang Địch (允迪-Doãn Dịch), thuỵ Cương Trực phủ quân. Sinh năm Kỷ Sửu (1769), mất năm 1825, thọ 57 tuổi là con trai thứ 3 cụ Viết Quýnh.
Cao tổ tỉ là Cao Thị Đính, hiệu Từ Phú, quê ở thôn Hậu Đức, mất ngày 2/11
Sinh hạ: Khắc Tốn, Thị Tính, Thị Nhương, Thị Trạm
Tổ khảo Khắc Tốn con trưởng cụ Quang Địch
Tổ tỉ Đặng Thị Đoan, người Quang Trạch
Sinh Yêm (mất), Khắc Cư, Thị Xuân
Kế thất Phạm Thị Ái, người Thịnh Mỹ, sinh Thị Chương, Thị Phương
Con gái cụ Quang Địch
Thị Tính lấy chồng là Cao Danh Tựu, ở Thịnh Mỹ
Thị Nhượng lấy chồng là Tạ Khắc Trường ở Bút Điền
Thị Trạm lấy chồng là Tạ Khắc Trạch ở Bút Điền
Tổ Khảo Khắc Cự, con cụ Khắc Tốn
Tỉ tổ Tạ Thị Kết người Bút Điền
Sinh hạ:
1. Khắc Nông (lấy người họ Trần sinh Thị Lạo, Thị Con, Khắc Hợp, Thị Y, Khắc..);
2. Thị Xuân (có con là Phạm Sĩ Hoằng);
3. Thị Chiếu (chồng là Nguyễn Hữu Dậu quê ở Quảng Hà).
ĐỆ TỨ CHI
Cao tổ khảo tiền tả tướng sĩ lang thừa hoa điện tri sự Hoàng quý công tự Viết Dật, thuỵ Cần mẫn phủ quân. Con trai thứ 4 cụ Hiển Khánh (Viết Quýnh). Sinh năm Nhâm Thìn (1772), mất 10/8/1805 thọ 34 tuổi.
Tỉ tổ Hoàng Thị hiệu Từ Lưu, mất 18/2
Kế thất Tạ Thị Diệu người Bút Điền
Sinh Khắc Tuy, Khắc Truy, Thị Ký, Thị Thuần, Thị Hợi, Thị Mạch, Thị Ngân, Thị Sâm (mất).
Tổ khảo Khắc Truy (con cụ Viết Dật)
Tỉ tổ: Tạ Thị Diêu, người Bút Điền
Sinh: Khắc Dai, Khắc Cẩn, Khắc Huệ, Khắc Năm (mất)
Khắc Dai, con trưởng cụ Khắc Truy
Vợ là Lê Thị Nhuận người cùng làng
Sinh:Gia (mất), Khắc Mỹ, Khắc Lợi và 1 nữ
Khắc Mỹ lấy Trần Thị Cáp người cùng thôn sinh Thị Hảo, Thị Em rồi đi tập binh làm đội trưởng
Khắc Lợi lấy Thái Thị Nậy người Quảng Hà
Khắc Cẩn con trai thứ 2 cụ Khắc Truy
Sinh Khắc Vân,Khắc Luân, Khắc Lý, Khắc Hoa
6 người con gái cụ Viết Dật
1. Thị Ký?? lấy chồng thôn Vân Đàm, sinh Nguyễn Khắc Thuận
2. Thị Thuần lấy chồng là Tri phủ Đặng Quang Đô người Viên Minh. Sinh Quang Trạch, Thị Nguyên
3. Thị...?? lấy chồng là Hoàng ĐăngTrung, người Quảng Hà
4. Thị Bá, lấy chồng là Lê Trọng Đào, người cùng làng
5. Thị Ngân lấy chồng là Tri phủ Đặng Quang Đô người Viên Minh
6. Thị Sâm lấy chồng là Nguyễn Văn Đề người Đan Trung.
Bản gia phả cụ Hiệp ghi: Khắc Ngạn hiệu Tự Lập, thú Vân Tập thôn, Thị Hảo sinh Thị Diệu, Khắc Doãn, Thị Đông, Khắc Cung, Thị Mão, Thị Ba sinh Trần Cò. Chí Tự Đức tam thập niên Mậu Dần (1878) khâm mông thụ chính, đội trưởng, sắc thụ tráng tiết, Lục phẩm di mục tứ đối nguyên ngũ hồi gia hưu dưỡng. Khắc Doãn mông thụ viên tử.
Tên huý hay tên tự?
Hoàng Minh Tuyển sưu tầm, dịch, biên tập và hiệu đính