Cụ có dáng người thấp đậm, chậm chạp và hơi đen, mặt vuông to. Thuở nhỏ học ở trường làng rồi lên Hải Dương học, sau thi đỗ vào Trường bảo hộ Nam trung học sư phạm Cửa Bắc, Hà Nội. Sau 3 năm học được xếp loại giỏi cụ thi luôn Cử nhân ngành Luật và đõ khoá Ba năm Quý Dậu (1933); đến năm Bính Tý (1936) tốt nghiệp cụ được hậu bổ 2 năm thực tập Tri huyện Duyên Hà, tỉnh Thái Bình.
Cụ vốn có kiến thức sâu rộng, lại thanh liêm, chính trực và xuất thân nhà nghèo nên rất thương dân và thường trừng trị bọn hào lý ức hiếp nhân dân. Tháng 11 năm Kỷ Mão (1939) cụ được thực thụ Tri huyện Duyên Hà. Cụ ngồi tri huyện trong những năm phong trào Việt Minh rất mạnh ở Thái Bình vậy mà tính mạng cụ vẫn được bình an; thế mới biết cái đức của cụ lớn đến đâu.
Tháng 8.1945- CM tháng Tám thắng lợi cụ về quê ẩn dật, có thời kỳ sang nương nhờ ông Chưởng Phất ở Lai Cầu, Tứ Kỳ. Năm 1946-1947 giặc Pháp tràn về vùng Gia Lộc, Tứ Kỳ. Thấy cụ có bằng cấp nên Pháp đưa cụ về Hải Dương chấp chính nhưng cụ không nghe và dời đi Hà Nội. Tại đây vào đầu năm 1949 cụ nhận được thư của Hồ Chủ tịch đích thân mời cụ cùng 3 thành viên có tư tưởng tiến bộ trong bộ máy viên chức Nam Triều ra chiến khu, gặp lúc trong người có bệnh nên cụ không ra được.
Ở lại Hà Nội cụ ra chấp chính làm phó thị trưởng rồi làm thị trưởng (?). Ở cương vị này cụ khéo léo góp phần giảm bớt các cuộc hành binh phá hoại, đàn áp dân chúng và nới lỏng việc cầm tù. Đầu năm Quý Tỵ (1953) cụ ra tranh cử Thủ Hiến Bắc kỳ nhưng không thành.
Năm 1954 cụ di cư vào Nam. Khi Ngô Đình Diệm nên nắm quyền đưa cụ đi làm Đại sứ VNCH tại Căm- pu- chia, rồi làm Đại sứ VNCH tại Anh quốc. Sau khi Diệm bị lật đổ cụ tỵ nạn tại Pháp. Vì sợ liên luỵ đến họ hàng nên từ đó đến nay không có liên hệ.
Cụ bà là con gái cụ Thủ Ngọc cùng làng.
Cụ sinh được 2 con trai là Khắc Chiên, Khắc Thuấn và 1 con gái là Thuý. Tất cả hiện đều sống ở Pháp. |