ĐỨC THÁNH TỔ NHÂN HOÀNG ĐẾ HÚY NGUYỄN PHÚC KIỂU
(1791 - 1841)
Đời Thứ XII
12.1. - THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP
Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế húy là Nguyễn Phúc Kiểu, còn húy Đảm (1) con thứ tư của đức Thế Tổ Nguyễn Phúc Anh và Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu Nguyễn Thị Đang. Ngài sinh ngày 23 tháng 4 năm Tân hợi (25-5-1791) tại làng Tân Lộc, tĩnh Gia Định (2).
12.1.1 Thuở thiếu thời
Thuở nhỏ ngài thông minh, hiếu học, lại giỏi về cỡi ngựa bắn cung, tính tình nhân từ biết thương yêu nah em cùng mọi người. Lúc lên 8 tuổi có lần ngài chơi với tên tiểu hầu, khi ngủ trưa bị nó vẽ lên mặt, đức Thế Tổ bắt gặp, ngài phải tự nhận mình vẽ để cho tên hầu khỏi tội. Gặp những lúc Thế Tổ quở trách các hoàng tử, ngài thường khóc xin tha.
Năm Ất hợi (1815) ngài được lập làm Thái Tử, đến ở cung Thanh Hòa, để dự phần xét đoán chính sự làm quen với việc nước.
12.1.2 Thời kỳ trị vị
Tháng giêng năm Canh thìn (1820) ngài lên nối ngôi, bấy giờ đã 30 tuổi nên rất am hiểu việc triều chính, việc gì cũng muốn tỏ tường. Nhiều lần xong buổi chầu, ngài đòi một vài quan đại thần ở lại để bàn việc, hoặc hỏi sự tích xưa, hoặc hỏi những nhân vật cùng phong tục các nước xa lạ. Ngài rất siêng năng, thức khuya dậy sớm xem xét công việc, có khi thắp đèn đọc sớ chương ở các nơi gởi về đến trống canh ba mới nghỉ. Ngài thường bảo các quan : "Lòng người chịu sửa sang thì lúc già yếu mỏi mệt còn làm gì được. Vì vậy trẫm không lúc nào dám lười biếng". Vì thế trong thời kỳ trị vì ngài đã đổi thay rất nhiều việc, từ nội trị, ngoại giao cho đến những cải cách xã hội cùng những việc trong dòng họ.
Về nội trị, guồng mấy cai trị trong nước được sửa đổi, cải thiện lề lối trung ương tập quyền, cho bỏ các dinh và trấn mà thành lập các tỉnh. Nước được chia thành 31 tỉnh, đặt các quan Tổng đốc, Tuần phủ, Bố Chính Sứ, Án Sát và Lĩnh Binh để trông coi (3). Các cơ quan điều khiển tại Triều cũng đổi mới, Thị Thư Viện đổi thành Văn Thư Phòng vào năm Canh thìn (1820), rồi thành Nốc Các vào năm Kỷ sửu (1829) đó là cơ quang như văn phòng thư ký của ngài. Năm Giáp ngọ (1830) ngài đặt ra Cơ mật viện để trông coi những việc quốc quân trọng yếu.
Ngài cho định lại quan chế, đặt mức lương bổng của các quan tùy theo nghạch trật, chia phẩm trật thành chín cấp mỗi cấp lại phân ra chính và tùng (4), định tiền gạo cho mỗi cấp cùng thời hạn lãnh bổng. Ngoài ra ngài còn cho cấp tiền dưỡng liêm để tránh sự hà lạm của quan lại đối với dân chúng.
Để xa hội có qui cũ cùng nề nếp, ngài cho thống nhất việc đo lường va thống nhất y phục. Năm Bính thân (1836) phủ huyện được cấp các cân mẫu, rồi năm Kỷ hợi (1839) được cấp các loại thước mộc, thước may, thước đo ruộng. Về y phục ngài từng bảo : "Ngày nay nước nhà cương thổ đã hiệp nhất thì chính trị, phong tục lẽ nào khác biệt", nên nhiều đạo dụ đã ban bố để y phục ở Bắc và Nam được giống nhau.
Ngài còn nghĩ đến việc giúp lư chuyển tiền bạc, tránh cho người đi xa khỏi mang theo nhiều tiền, như năm Bính thân (1836) đặt ra Giao Tứ Vụ ở Cao Bằng để chuyển đổi tiền bạc, cơ quan này có nhiệm vụ như ngân hàng ngày nay.
Việc khẩn hoang rất được khuyến khích, ngài cho quan lại mộ dân lập những ấp mới ở trong Nam cũng như ngoài Bắc, khiến cho việc phân phối ruộng đất được hợp lý. Ngoài ra ngài cho sửa sang hệ thống giao thông, đắp đê, đào kinh sửa cầu để hàng hóa trong nước được lưu thông dễ dàng. Ngài lại ban dụ cho lập nhà dưỡng tế tại cáct ỉnh để giúp đỡ những người nghèo khổ, tàn tật hoặc già cả không nơi nương tựa.
Việc học trong thời ngài vì rất được chú trọng. ngài thường bảo : "Đạo trị nước phải gây dựng nhân tài", nên những người có tài đều được nâng đỡ, trọng dụng. Năm Tân tị (1821), ngài cho lập Quốc tử giám, các giám sinh học tại trường đều được hưởng học bổng để ăn học (4). Về thi cử ngoài kỳ thi Hương đã định ở đời Thế Tổ, ngài cho mở thêm kỳ thi Hội và thi Đình, cho định phân điểm để phân hạng người thi đỗ, rồi định rõ những năm thi Hương, thi Hội và thi Đình. Ngài cũng khuyến khích việc soạn sách, và tìm sách cổ vì thế có nhiều sách giá trị được soạn ra như Gia Định Thông chí, Minh Bột Di Hoán văn thảo, Lịch triều Hiến Chương Loại chí (5).
Lúc ngài lên ngôi việc trong nước đã ổn định, nhưng về vũ bị vẫn cho luyện tập kỹ càng. Những nơi hiểm yếu trong nước đều được lập đồn aỉ, ở biển thì lập pháo đài. Nước ta có bờ biển dài nên về thủy quân được ngài rất chú trọng, các vùng hải đảo đều được đánh mốc giúp cho sự lưu thông dễ dàng. Vì binh lực mạnh nên giặc giã trong nước lần hồi đều dẹp yên.
Trong thời kỳ ngài trị vì, bờ cõi nước ta được mở rộng, lãnh thổ của nước ta bấy giờ lớn nhất trong lịch sử. Nhiều vùng ở Lào vì tránh sự xâm lăng của quân Xiêm đã xin nội thuộc và được lập thành các phủ Trấn Tĩnh, Lạc Biên, Trấn Biên, Trấn Định và Trấn Man. Nói chung các vùng Sầm Nứa, Trấn Ninh, Savankhét bấy giờ đều thuộc vào nước ta. Nước Chân Lạp vẫn chịu sự bảo hộ và được ngài đổi thành Trấn Tây Thành, nhưng địa danh đều được đặt tên tiếng Việt, nhưng quan lại ta thuở đó làm nhiều điềi sai trái khiến cuối đời ngài dân ở đó nổi dậy cấu kết với quân Xiêm mà đánh phá.
Việc ngoại giao cũng được ngài chăm lo thấu đáo. Với Trung Hoa vẫn noi theo đời Thế Tổ, năm Tân tị (1821) ngài ra Bắc nhận thụ phong của nhà Thanh. Với Xiêm La và Diến Điện tình giao hảo được thắt chặt. Ngài chú ý nhất là các nước ở phương Tây. Việc người Anh chiếm Ấn Độ, người Bồ chiếm Ma Cao, người Tây Ban Nha chiếm Phi Luật Tân nhắc nhỡ ngài họa xâm lược của các nước Âu Châu. Trước khi lên ngôi ngài đã từng giao hảo với những người phương Tây theo giúp đức Thế Tổ, ngài hiểu rõ họ và không tránh được nghi ngờ, nhất là dau khi bắt được linh mục Marchand (cố Du) theo giúp Lê Văn Khôi ở thành Phan An (6) thì ngài càng từ chối sự giao thương với phương Tây. Sau cuộc nha phiến chiến tranh vào năm Kỷ hợi (1839), người Anh vì mối lợi kinh tế đã xâm lăng Trungn Hoa, đó là khởi đầu sự đe dọa của các nước Âu Châu nên ngài cho thuyền đi thăm dò ở các nơi. Năm Canh tý (1840) cho thuyền đến Penang rồi Calcutta xem sự sắp đặt chiến tranh của người Anh, sang Batavia xem động tịnh của người Hòa Lan, rồi cử phái bộ ngoại giao sanh Anh và Pháp. Việc sắp đặt ngoại giao cho ta thấy ngài xứng đáng là vua của nước độc lập biết lo nghĩ xa xôi.
Việc dòng họ ngài đã để tâm nhiều, nhất là khi con cháu càng ngày càng đông. Năm Canh thìn (1820) cho lập Tôn Nhân Phủ để trông coi các việc trong Hoàng Tộc, liệt kê những người thân sơ, cấp tước lộc cho con cháu, cấp dưỡng người cô quả, lo việc tang tế hôn lễ, lập từ tế coi các hi công tính cùng lo việc thờ cúng. Năm Tân tỵ (1821) cho khởi đầu việc biên soạn Ngọc Điệp, đến năm sau lại cho soạn Hoàng Tử Phả, Hoàng Nữ Phả cùng Tông Phả, đến năm Giáp thân (1824) thì làm xong Ngọc Điệp, lại đặt lệ 6 năm tu sửa Ngọc Điệp một lần, 3 năm tu sửa Tôn Phổ (7)... Ngài lại ban ngự chế để hệ kim sách định 20 chữ thuộc bộ Nhật để chọn làm tên cho các vua ngày sau, ban Đế hệ thi và phiên hệ thi dùng để đặt tên mà định thân sơ các nhánh trong họ. Ngoài ra ngài còn cho soạn Liệt thánh thực lục ghi công lao của các liệt thánh đời trước. Ngài cho sửa sang lại lăng tẩm liệt thánh, sửa sang lại các cung điện như Điện Thái Hòa, Đại Cung Môn, xây cất Ngọ Môn, Hưng Miếu, Thế Miếu...
Ngài là người siêng năng, chịu khó tìm tòi học hỏi, trọng những người có tài năng nên đời ngài có nhiều người phò tá giỏi, khiến thực thi thành công những chính sách cải tổ của ngài để nước ta trở thành có kỷ cương nề nếp. Tuy nhiên không tránh được những điều quá nghiêm khắc đối với dân cũng như quan. Với quan niệm Nho giáo là phong hóa đất nước phát xuất từ chốn cung cấm, pháp luật thi hành khởi sự ở người thân, nên đối với ngài phép nước chẳng chừa một ai. Với anh em như Điện Ban Công, An Khánh Công đều bị nghiêm trị, với con cái ngài từng bảo : "Phàm con nhà giàu sang ăn ngon mặc đẹp không quen vất vả thì đến lúc làm việc làm chẳng nổi, Trẫm từ ngày lên ngôi coi chầu xét việc đến khi xế bóng mới nghỉ, dầu ở trong cung cũng xem xét các sớ chương ở các gởi về. Trẫm nghĩ có siêng năng thì việc mới thành nên chẳng dám nhàn rỗi. Các con còn trẻ có sức mạnh nên tập làm việc chó ham chơi bời, biếng nhác". Với quan lại thì ức chế quyền hành, nghiêm răn hoạn quan, với hoàng thân quốc thích thì ngăn cản dự việc chính sự, đó là ngài đề phòng những hậu họa.
Trong 21 năm cầm quyền ngài chăm lo mọi việc không hề nghỉ ngơi, những lúc thong dong ngài cũng lưu ý đến việc văn chương, ngự chế được 5 tập thơ (Minh Mệng thánh chế thi tập), 2 tập văn cùng các bài tản văn như Thiên cơ dự triệu, Cổ khí minh văn, mục đích tải đạo, mở rộng phép học. Ngài là vị vua khác thường, thay đổi được những thói quê mùa từ đời Lê, Lý, Trần ngày trước, mở ra lối cai trị văn minh muôn đời cho nước Đại Nam (8) ta.
Ngày 19 tháng chạp năm Canh tý (1841) ngài đau nặng, đến ngày 28 tháng chạp (20-1-1843) ngài mất tại điện Quang Minh, hưởng thọ 50 tuổi trị vì được 21 năm.
12.2. - LĂNG, MIẾU THỜ VÀ CÁC TƯỚC HIỆU ĐƯỢC TRUY TÔN
Ngài mất, lăng táng tại núi Cẩm Kê ấp An Bằng huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên gọi là Hiếu Lăng (9).
Khi Hiến Tổ Chương Hoàng Đế lên ngôi dâng tôn thụy là Thánh Tổ Thể Thiên Xương Vận Chí Hiếu Thuần Đức Văn Vũ Minh Đoán Sáng Thuật Đại Thành Hậu Trạch Phong Công Nhân Hoàn Đế.
Ngài được thờ tại Thế Miếu ở gian thứ nhất bên trái. Ngoài ra còn được thờ tại điện Phụng Tiên trong Hoàng thành cũng như thờ tại điện Sùng Ân ở Hiếu Lăng.
12.3 - GIA ĐÌNH
12.3.1. Hậu và phi
12.3.1.1 Hồ Thị Hoa Tá Thiên Nhân Hoàng Hậu
Bà húy là Hồ Thị Hoa còn có tên là Thật, người huyện Bình An, Biên Hòa là con gái của Phúc Quốc công Hồ Văn Bôi, mẹ họ Hoàng. Bà sinh ngày 5 tháng 11 năm Tân hợi (30-11-1791).
Năm Bính dần (1806) đức Thế Tổ và Thuận Thiên Hoàng Hậu tuyển chọn con gái công thần làm phi cho Thánh Tổ nên bà được vào hầu nơi tiềm để. Bà tính dịu dàng thận trọng hiền đức, một lòng hiếu kính nên Thế Tổ rất ngợi khen ban cho tên Thật. Nguyên trước đó Thế Tổ bảo : "Phi (10) nguyên có tên Hoa là lấy ý nghĩa ở 4 chữ "Đặc dĩ phương văn" (để truyền hương thơm) sao bằng tên Thật gồm cà phúc lẫn quả.
Tháng 5 năm Đinh mão (1807) bà sinh Hiến Tổ Chương Hoàng Đế mới được 13 ngày thì bà mất.
Bà mất ngày 23 tháng 5 năm Đinh mão (28-6-1807), lúc 17 tuổi. Lăng của bà được xây năm Tân sửu (1841) ở xã Cư Chính, (Hương Thủy, Thừa Thiên).
Tháng 6 năm Tân tị (1821) được sách tăn5g Chiêu Nghi, thụy Thuận Đức hợp thờ tại Gia Phi Phạm thị từ (11).
Tháng 5 năm Bính thân (1836) vua Hiến Tổ dâng tôn thụy là Tá Thiên Lệ Thánh Đoan Chính Cung Hòa Đốc Khánh Từ Huy Minh Hiền Thuận Đức Nhân Hoàng Hậu, đặt tên nhà thờ là Vĩnh Tư Điện, tên lăng là Hiếu Đông. Ngày 20 tháng 8 năm đó rước thần chủ của bà về thờ ở điện Hiếu Tư (nơi để tử cung của Thánh Tổ và thờ Thánh Tổ) nhà thờ cũ được triệt bỏ.
Ngày 9 tháng 1 năm Quí mão (1843) rước thần chủ của bà về phối thờ với đức Thánh Tổ ở Thế Miếu tại gian thứ nhất bên trái.
Bà chì sinh được một hoàng tử là Nguyễn Phúc Tuyền (Hiến Tổ Chương Hoàng Đế).
Thân sinh của bà là ông Hồ Văn Bôi vào năm Bính tuất (1826) được truy tặng Nghiêm Vũ Tướng Quân Thượng Hộ Quân Đô Thống, thân mẫu được tặng nhị phẩm phu nhân. Đến năm Tân sửu (1841) Hiến Tổ truy phong ông làm Đặc Tiến Tráng Vũ Tướng Quân Đô Thống Phủ Đô Thống Chưởng Phủ Sự Thái Bảo thụy Trung Dũng, tước Phúc Quốc Công và bà là Nhất phẩm Quốc Công phu nhân, thụy Ý Thuận. Ngoài ra cho lập nhà thờ ở Xuân Hòa, (Hương Trà, Thừa Thiên). Đồng thời cũng lập nhà thờ tại nguyên quán gọi là Hồ tộc từ đường.
12.3.1.2 Ngô Thị Chính Hiền Phi
Bà húy là Ngô Thị Chính còn húy là Kiều người huyện Đăng Xương (Quảng Trị) là con của Chưởng Cơ Ngô Văn Sở (12), mẹ họ Nguyễn. Bà sinh năm Nhâm tý (1792).
Bà vào hầu Thánh Tổ từ khi ngài còn nơi tiềm để, Năm Canh thìn (1820) được phong làm Cung tần, rồi dần được tấn phong Hiền Phi.
Bà mất năm Quí mão (1843), mộ ở làng Châu Chử, (Hương Thủy, Thừa Thiên).
Bà sinh được 5 Hoàng tử và 4 Hoàng nữ:
Hoàng Tử |
Hoàng Nữ |
|
|
1. Nguyễn Phúc Chính |
1. Nguyễn Phúc Ngọc Tông |
2. Nguyễn Phúc Miên Hoành |
2. Nguyễn Phúc Khuê Gia |
3. Nguyễn Phúc Miên Áo |
3. Nguyễn Phúc Uyển Diễm |
4. Nguyễn Phúc Miên Quân |
4. Nguyễn Phúc Thụy Thục |
5. Nguyễn Phúc Miên Uyển |
|
12.3.1.3 Phạm Thị Tuyết Gia Phi
Bà húy là Phạm Thị Tuyết, còn húy là Hà, người Tuy Viễn, Bình Định con gái của ông Phạm Văn Chẩn (được truy phong Quang Lộc Tự Thiếu Khanh). Năm sinh không rõ, bà mất năm Nhâm thân (1812), năm Tân tỵ (1821) được tặng làm Tu Nghi thụy Đoan Lệ, ban đầu thờ ở Hồ Phạm Nhị Tần từ, sau dời thờ riêng ở gia Phi từ.
Bà sinh được một hoàng tử là Nguyễn Phúc Miên Định.
12.3.1.4 Trần Thị Tuyến Trang Tần
Bà húy Trần Thị Tuyến, còn húy là Hương, người Phú Lộc, Thứa Thiên, con gái của Trần Công Nghị (được truy tặng Vệ úy). Bà sinh ngày 21 tháng 11 năm Tân hợi (16-12-1791) vào hầu vua năm Kỷ tỵ (1809) lúc vua còn nơi tiềm để. bà mất ngày 14 tháng 11 năm Tân hợi (4-1-1852) thọ 61 tuổi, thụy là Uyen Thục.
12.3.1.5 Nguyễn Thị Bảo Thục Tần
Bà húy Nguyễn Bị Bửu, người Bình Chương, Gia Định con quan tư không Nguyễn Khắc Thiệu, sinh ngày 30 tháng 7 năm Tân dậu (7-9-1801). Năm Giáp tuất (1814) bà được vào hầu đức Thánh Tổ khi ngài còn ở tiềm để. Sau bà được tấn phong là Thục tần.
Năm Kỷ dậu (1849) con trai bà là Tùng Thiện Vương xây Tiêu Viên xin vua rước mẹ về phụng dưỡng.
Ngày 17 tháng 8 năm Tân hợi (12-9-1851) bà mất. Nguyên lúc trước bà được phong Thục tần nhưng phạm lỗi nên bị thu lại sách phong, khi bà mất Tùng Thiện Vương dâng sớ cầu khẩn xin lại, lời lẽ trong sớ hết sức thống thiết nên vua Tự Đức động lòng đặc ân cấp lại, ban thụy là Đoan Liệt.
Bà sinh được 4 Hoàng Tử và 3 Hoàng Nữ:
Hoàng Tử |
Hoàng Nữ |
|
|
1. Nguyễn Phúc Miên Thẩm |
1. Nguyễn Phúc Vĩnh Trinh |
2. Nguyễn Phúc Miên Hựu (mất sớm) |
2. Nguyễn Phúc Trinh Thuận |
3. Tảo Thương (chưa có tên) |
3. Nguyễn Phúc Tĩnh Hòa |
4. Tảo Thương (chưa có tên) |
|
|
|
12.3.1.6 Trần Thị Huân Huệ Tần
Bà húy Trần Thị Huân còn húy là Lại, người Diên Khánh, Quảng Nam, con gái của ông Trần Văn Hùng (được truy tặng Vệ Úy). Năm sinh và mất của bà không rõ, thụy Uyển Thuận
Bà sinh được 6 Hoàng Tử và 9 Hoàng Nữ:
Hoàng Tử |
Hoàng Nữ |
|
|
1. Nguyễn Phúc Miên Trạch |
1. Nguyễn Phúc Nhu Thục |
2. Nguyễn Phúc Miên Phục |
2. Nguyễn Phúc Tường Hòa |
3. Nguyễn Phúc Miên Tỉnh |
3. Nguyễn Phúc Nhàn An |
4. Nguyễn Phúc Miên Ngôn |
4. Nguyễn Phúc Thực Tư |
5. Nguyễn Phúc Miên Thất |
5. Nguyễn Phúc Hòa Nhàn |
6. Nguyễn Phúc Miên Sách |
6. Nguyễn Phúc Nhu Hòa |
|
7. Nguyễn Phúc Lương Nhàn |
|
8. Nguyễn Phúc Lương Tĩnh |
|
9. Nguyễn Phúc Phúc Tường |
|
|
12.3.1.7 Hồ Thị Tùy An Tần
Bà húy Hồ Thị Tùy lại húy là Khiên, người tổn Bái Ân, (Triệu Phong, Quảng Trị), con gái của ông Hồ Văn Chiêm (được truy tặng Cẩm Y vệ Hiệu úy), mẹ bà họ Lâm. Bà sinh vào tháng 2 năm Ất mão (1795). Năm Canh ngọ (1810) bà được vào hầu Thánh Tổ nơi tiềm để. Khi Thánh Tổ lên nối ngôi vào năm Canh thìn (1820) bà được phong Tài nhân, rồi năm Giáp thân (1824) phong Mỹ nhân, năm Kỷ sửu (1829) phong Tiệp dư, năm Bính thân (1836) phong An tần.
Bà mất ngày 18 tháng 10 năm Kỷ hợi (23-11-1839) thọ 45 tuổi, ban thụy là Hoa Diễm. Bà được vua sắc phong cho lập từ đường để thờ gọi là Ý Thục từ. Đến năm Canh ngọ (1870) bà được rước về thờ tại nhà thờ của Tương An Quận Vương con trưởng của bà.
Tẩm bà ở làng Cư Chính, (Hương Thủy, Thừa Thiên).
Bà sinh được 3 Hoàng Tử và 1 Hoàng Nữ:
Hoàng tử |
Hoàng nữ |
|
|
1. Nguyễn Phúc Miên Bửu |
1. Nguyễn Phúc Nhu Thuận |
2. Nguyễn Phúc Miên Tể |
|
3. Nguyễn Phúc Miên Tuấn |
|
12.3.1.8 Nguyễn Thị Khuê Hòa Tần
Ba húy Nguyễn Thị Khuê còn húa là Bích Chi, người Phúc Lộc, Gia Định, là con gái của Chưởng Cơ Nguyễn Văn Thanh trấn thủ thỉnh Quảng Yên. Năm sinh và mất không rõ. Lúc mất được ban thụy là Tĩnh Nhã.
Bà sinh được 5 Hoàng Tử và 6 Hoàng Nữ:
Hoàng tử |
Hoàng nữ |
|
|
1. Nguyễn Phúc Miên Cư |
1. Nguyễn Phúc Tường Tĩnh |
2. Nguyễn Phúc Miên Tỉnh |
2. Nguyễn Phúc Thục Tuệ |
3. Nguyễn Phúc Miên Bảo |
3. Nguyễn Phúc Tĩnh An |
4. Nguyễn Phúc Miên Thân |
4. Nguyễn Phúc An Nhàn |
|
5. Nguyễn Phúc Trinh Hòa |
|
6. Nguyễn Phúc Tĩnh Trang |
12.3.1.9 Nguyễn Thị Thúy Trúc Lệ Tần
Bà húy Nguyễn Thị Thúy Trúc còn húy là Điện, người Bình Sơn, Quảng Nghĩa, con gái của Phó Vệ úy Nguyễn Gia Quý. Năm sinh và mất không rõ. Khi mất bà được ban thụy Thục Tắc.
Bà sinh được 6 Hoàng Tử và 2 Hoàng Nữ
Hoàng tử |
Hoàng nữ |
|
|
1. Nguyễn Phúc Miên Lương |
1. Nguyễn Phúc Trinh Nhàn |
2. Nguyễn Phúc Miên Kháp |
2. Nguyễn Phúc Nhu Nghi |
3. Nguyễn Phúc Miên Lâm |
|
4. Nguyễn Phúc Miên Chỉ |
|
5. Nguyễn Phúc Miên Bàng |
|
6. Nguyễn Phúc Miên Lịch |
|
12.3.1.10 Lê Thị Ái Tiệp dư
Bà húy Lê Thị Ái lại húy Cầu, người An Triền (Phong Điền, Thừa Thiên) là con gái thứ ba của Cẩm Y Hiệu úy Trần Tiến Thành. Bà sinh ngày 20 tháng 10 năm Kỷ mùi (17-11-1799).
Năm Giáp tuất (1813) bà được truyền vào hầu đức Thánh Tổ nơi tiềm để, sun vào hàng cung nhân. Năm Canh thìn (1820) được phong là Tài Nhân, năm Giáp thân (1824) phong Mỹ nhân, năm Bính thân (1836) sách phong Tiệp dư.
Bà vốn người chí hiếu, tư chất trung hậu. Vua Tự Đức từng khen : "Lê tiệp dư tiên triều tư chất trung hậu, mọi việc trong cung cư xử hợi lệ".
Bà mất ngày 26 tháng 8 năm Quý hợi (8-10-1863) thụy Tịnh Nhu, táng tại Dương Xuân Thượng (Hương Thủy, Thừa Thiên). Nhà thờ ở tại Phú Vang, (Thừa Thiên)"
Bà sinh được 3 Hoàng Tử và 2 Hoàng Nữ
Hoàng tử |
Hoàng nữ |
|
|
1. Nguyễn Phúc Miên Trinh |
1. Nguyễn Phúc Trang Tĩnh |
2. Nguyễn Phúc Miên Long |
2. Nguyễn Phúc Nhàn Trinh |
3. Nguyễn Phúc Miên Quan |
|
12.3.1.11 NguyễnThị Viên Tiệp dư
Bà húy Nguyễn Thị Viên, người Phong Điền, Thừa Thiên là con gái của Thiếu bảo Quận công Nguyễn Văn Khiêm. Năm sinh và mất không rõ. Khi mất bà được ban thụy là Dao Thụ. Ban đầu thờ bà ở Ý Thục từ.
Bà sinh được 2 Hoàng Tử và 3 Hoàng Nữ
Hoàng tử |
Hoàng nữ |
|
|
1. Nguyễn Phúc Miên Sủng |
1. Nguyễn Phúc Phương Trinh |
2. Nguyễn Phúc Miên Tiệp |
2. Nguyễn Phúc Nhàn Tuệ |
|
3. Nguyễn Phúc Hòa Trinh |
12.3.1.12 Lương Thị Nguyện Quí nhân
Bà húy Lương Thị Nguyện, người Phù Mỹ, Bình Định, con gái của ông Lương Đình Súy (được truy tặng Cẩm y Hiệu úy). Bà sinh ngày 1 tháng 9 năm Canh thân (18-10-1800), mất ngày 8 tháng 11 năm Tân mùi (9-12-1871) được ban thụy là Trang Thuận. Tẩm ở Nguyệt Biều (Dương Xuân, Hương Thủy, Thừa Thiên). Bà được thờ tại phủ của Lạc Biên quận công.
Bà sinh được 1 Hoàng Tử là Nguyễn Phúc Miên Khoan và 2 Hoàng Nữ là Nguyễn Phúc Quang Tĩnh, Nguyễn Phúc Đoan Thuận.
12.3.1.13 Cái Thị Trinh Quí nhân
Bà húy Cái Thị Trinh còn húy là Đoan, người Hải Lăng, Quảng Trị, bà là con gái của ông Cái Văn Hợp (được truy tặng Cẩm Y Hiệu úy). Năm sinh và mất không rõ. Khi mất ban thụy Trang Thuận, thờ tại Y thục từ.
Bà sinh được 1 Hoàng Tử là Nguyễn Phúc Miên Túc và 2 Hoàng Nữ là Nguyễn Phúc Hòa Thục và Nguyễn Phúc Vĩnh Gia.
12.3.1.14 NguyễnThị Trường Tiệp dư
Bà húy Nguyễn Thị Trường, người Phong Điền, Thừa Thiên, là con gái của Cẩm Y Vệ Hiệu úy Nguyễn Hữu Trạc. Năm sinh và mất không rõ. Khi mất bà được ban thụy là Đoan Tịnh.
Bà sinh được 2 Hoàng Tử và 3 Hoàng Nữ
Hoàng tử |
Hoàng nữ |
|
|
1. Nguyễn Phúc Miên Thần |
1. Nguyễn Phúc Đoan Trinh |
2. Nguyễn Phúc Miên Cung |
|
3. Nguyễn Phúc Miên Gia |
|
12.3.1.15 Đỗ Thị Tùng Quí nhân
Bà húy Đỗ Thị Tùng còn húy là Bí, người Ấp Trầm Bái, xã Dương Xuân Thượng (Hương Trà, Thừa Thiên), là con gái của ông Đỗ Văn Thạch (được truy tặng Hiếu úy). Năm sinh và mất không rõ. Gia đình của bà có 3 người con gái tiến cung vào hầu đức Thánh Tổ là bà, Quí nhân Đỗ Thị Tâm và Tài nhân Đỗ Thị Cương.
Khi mất bà được ban thụy Đoan Ý.
Bà sinh được một Hoàng Tử là Nguyễn Phúc Miên Trung
12.3.1.16 Đỗ Thị Tâm Quí nhân
Bà húy Đỗ Thị Tâm còn húy là Duyên, con gái của ông Đỗ Văn Thạch (được truy tặng Hiệu úy), em cùng mẹ cới Quí nhân Đỗ Thị Tùng. Bà sinh ngày 24 tháng 8 năm Giáp tý (27-09-1804), mất ngày 25 tháng 2 năm Quý hợi (12-4-1863), được ban thụy Trang Thuận
Bà sinh được 5 Hoàng Tử và 3 Hoàng Nữ
Hoàng tử |
Hoàng nữ |
|
|
1. Nguyễn Phúc Miên Hoạn |
1. Nguyễn Phúc Gia Tiết |
2. Nguyễn Phúc Miên Dần |
2. Nguyễn Phúc Lương Trinh |
3. Nguyễn Phúc Miên Khách |
3. Tảo Thương |
4. Nguyễn Phúc Miên Hoang |
|
12.3.1.17 Lê Thị Lộc Quí nhân
Bà húy Lê Thị Lộc còn húy là Thúy Nhi. Gốc tích và năm sinh không rõ.
Bà sinh được 3 Hoàng Tử và 2 Hoàng Nữ
Hoàng tử |
Hoàng nữ |
|
|
1. Nguyễn Phúc Miên Thanh |
1. Nguyễn Phúc Thục Tĩnh |
2. Nguyễn Phúc Miên Kiền |
2. Nguyễn Phúc Thụy Thận |
3. Nguyễn Phúc Miên Ngụ |
|
12.3.1.18 Nguyễn Thị Hạnh Quí nhân
Bà húy Nguyễn Thị Hạnh, người Quảng Điền, Thừa Thiên. Năm sinh và mất không rõ.
Bà sinh được 2 Hoàng Tử là Nguyễn Phúc Miên Miêu, Nguyễn Phúc Miên Ổn và 1 Hoàng Nữ Nguyễn Phúc Trang Nhàn.
12.3.1.19 Nguyễn Thị Bân Mỹ nhân
Bà húy Nguyễn Thị Bân, còn húy là Lạc, người Do Linh, Quảng Trị. Năm sinh, mất không rõ. Khi mất được ban thụy là Thục Thận.
Bà sinh được 1 Hoàng Tử là Nguyễn Phúc Miên Thủ và 1 Hoàng Nữ là Nguyễn Phúc Lương Đức.
12.3.1.20 Đoàn Thị Thụy Mỹ nhân
Bà húy Đoàn Thị Thụy người Phú Vang, Thừa Thiê, là con gái của Cẩm Y Hiệu úy Đoàn Đức Nghĩa. Năm sinh và mất không rõ. Kho mất bà được ban thụy là Đoan Ý.
Bà sinh được 1 Hoàng Nữ là Nguyễn Phúc Gia Trinh
12.3.1.21 Đinh Thị Nghĩa Tài nhân
Bà húy Đinh Thị Nghĩa. Lai lịch cùng năm sinh, mất không rõ.
Bà sinh được 1 Hoàng Tử là Nguyễn Phúc Miên Trử và 1 Hoàng Nữ là Nguyễn Phúc Gia Trang.
12.3.1.22 Trần Thị Tiền Tài nhân
Bà húy Trần Thị Tiền còn húy là Thư. Lai lịch cùng năm sinh, mất không rõ.
Bà sinh được 2 Hoàng Tử là Nguyễn Phúc Miên Tuyên và Nguyễn Phúc Miên Trụ.
12.3.1.23 Nguyễn Thị Tính Tài nhân
Bà húy Nguyễn Thị Tính, người Quảng Trị, con gái của Tham Tri bộ binh Nguyễn Công Tiệp. Năm sinh và mất không rõ.
Bà sinh được 1 Hoàng Tử là Nguyễn Phúc Miên Tằng.
12.3.1.24 Đỗ Thị Cương Tài nhân
Bà húy Đỗ Thị Cương còn húy là Mẫu Đơn, húy là Phong. Bà là em gái của Quí nhân Đỗ Thị Tâm và Quí nhân Đỗ Thị Tùng. Năm sinh và mất không rõ. Khi mất được ban thụy là Thục Thận.
Ba sinh được 1 Hoàng Tử là Nguyễn Phúc Miên Khế và 2 Hoàng Nữ là Nguyễn Phúc Nhàn Thục, Nguyễn Phúc Gia Tĩnh.
12.3.1.25 Trần Thị Thanh Tài nhân
Bà húy Trần Thị Thanh, còn húy là Hà Hương. Lai lịch và năm sinh, mất không rõ. Khi mất bà được ban thụy Trang Thuận.
Bà sinh được 1 Hoàng Tử là Nguyễn Phúc Miên Triện
12.3.1.26 Trần Thị Trúc Tài nhân
Bà húy Trần Thị Trúc. Lai lịch và năm sinh, mất không rõ.
Bà sinh được 2 Hoàng Nữ là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy và Nguyễn Phúc Gia Thụy
12.3.1.27 Trần Thị Tiêm Tài nhân chưa xếp vào giai thứ
Bà húy Trần Thị Tiêm, người Phú Vang, Thừa Thiên. Năm sinh và mất không rõ.
Bà sinh được một Hoàng Nữ là Nguyễn Phúc Trinh Đức.
12.3.1.28 Bùi Thị Sơn Tài nhân chưa xếp vào giai thứ
Bà húy Buì Thị Sơn, lai lịch và năm sinh, mất không rõ.
Bà sinh được 1 Hoàng Tử là Nguyễn Phúc Miên Điều và 2 Hoàng Nữ là Nguyễn Phúc Hoà Thuận, Nguyễn Phúc Trinh Tĩnh.
12.3.1.29 Lý Thị Cầm Cung Nhân
Bà húy Lý Thị Cầm, lai lịch cùng năm sinh không rõ.
Bà sinh được 1 Hoàng Nữ là Nguyễn Phúc Nhàn Tĩnh.
12.3.1.30 Cao Thị Diệu Cung Nhân
Bà húy Cao Thị Diệu, người Do Linh, Quảng Trị. Năm sinh, mất không rõ. Tẩm ở thôn Tứ Tây (An Cựu, Thừa Thiên).
Bà sinh được 1 Hoàng Tử là Nguyễn Phúc Miên Tả
12.3.1.31 Đặng Thị Yểu Điệu Cung Nhân
Bà húy Dặng Thị Yểu Điệu, lai lịch cùng năm sinh, mất không rõ.
Bà sinh được 1 Hoàng Nữ là Nguyễn Phúc Trang Tường
12.3.1.32 Lê Thị Đính Cung Nhân
Bà húy Lê Thị Đính, lai lịch cùng năm sinh, mất không rõ.
Bà sinh được 1 Hoàng Nữ là Nguyễn Phúc Trinh Thụy
12.3.1.33 Trần Thị Mỹ Cung Nhân
Bà húy Trần Thị Mỹ, lai lịch cùng năm sinh, mất không rõ.
Bà sinh được 1 Hoàng Nữ là Nguyễn Phúc Hoà Tường.
12.3.1.34 Trần Thị Nhã Cung Nhân
Bà húy Trần Thị Nhã, người Quảng Điền, Thừa Thiên. Năm sinh và mất không rõ.
Bà sinh được 1 Hoàng Tử là Nguyễn Phúc Miên Thích
12.3.1.35 Trần Thị Nhạn Cung Nhân
Bà húy Trần Thị Nhạn, lai lịch cùng năm sinh, mất không rõ.
Bà sinh được 1 Hoàng Nữ là Nguyễn Phúc Nhàn Thuận.
12.3.1.36 Hồ Thị Thể Cung Nhân
Bà húy Hồ Thị Thể, còn húy là Tố Cẩm. Lai lịch cùng năm sinh, mất không rõ.
Bà sinh được 1 Hoàng Tử là Nguyễn Phúc Miên Sạ.
12.3.1.37 Lê Thị Thông Cung Nhân
Bà húy Lê Thị Thông, lai lịch cùng năm sinh, mất không rõ.
Bà sinh được 1 Hoàng Nữ là Nguyễn Phúc Trinh Nhu.
12.3.1.38 Nguyễn Thị Xuân Cung Nhân
Bà húy Nguyễn Thị Xuân, người Gia Định, con gái của Chính đội Nguyễn Văn Châu. Năm sinh và mất không rõ.
Bà sinh được 1 Hoàng Tử là Nguyễn Phúc Miên Ký và 1 Hoàng Nữ là Nguyễn Phúc Nhu Tĩnh.
12.3.1.39 Phan Thị Viên Cung Nhân
Bà húy Phan Thị Viên, lai lịch cùng năm sinh, mất không rõ.
Bà sinh được 1 Hoàng Tử là Nguyễn Phúc Miên Thể.
12.3.1.40 Trần Thị Nghiêm Cung Nhân
Bà húy Trần Thị Nghiêm, lai lịch cùng năm sinh, mất không rõ.
Bà sinh được 2 Hoàng Tử và 3 Hoàng Nữ:
Hoàng tử |
Hoàng nữ |
|
|
1. Nguyễn Phúc Miên Phú |
1. Nguyễn Phúc Đoan Thuận |
2. Nguyễn Phúc Miên Tống |
2. Nguyễn Phúc Thục Thận |
|
3. Tảo thương chưa có tên |
12.3.1.41 Nguyễn Thị Vĩnh
Bà húy Nguyễn Thị Vĩnh, người huyện Hương Trà, Thừa Thiên. Năm sinh, mất không rõ.
Bà sinh được 1 Hoàng Tử là Nguyễn Phúc Miên V |