GIA

PHẢ

TỘC

CHÁU
NGOẠI
ÔNG
NGÔ
CÔNG
CHÍNH

BìnhTúThăngbình
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
Chi tiết gia đình
Là con của: Ngô Công Chính
Đời thứ: 1
Người trong gia đình
Tên Ngô Thị Thanh Hương (Nữ)
Tên thường Mười Y Tá
Tên Tự
Là con thứ 5
Ngày sinh 1934 (Giáp Tuất)
Địa chỉ Q. Thanh Khê. TP. Đà nẵng.  
Sự nghiệp, công đức, ghi chú

          Tiểu sử : Bà NGÔ THỊ THANH HƯƠNG
                            (Sáu Hường)
   Tục danh : Bà Mười Y-Tá
Sinh năm : 1934 (Giáp Tuất) tại xã Bình Tú, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
   Con gái út của ông Ngô Công Chính và bà Lê Thị Hiếu.
Thuở nhỏ được ba mẹ cưng chìu và cho ăn học đàng hoàng. Mặc dù là con cũng như lớn lên trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chiến tranh xãy ra triền miên vừa phải chạy tản cư vừa đi học, nhưng bà cũng đã học đến lớp 7 (Việt Minh) của trường Phan Chu Trinh ở Cẩm Khê. Vào thời đó ở làng quê rất ít người có được điều kiện và may mắn như bà. Với tư chất thông minh nên bà học rất giỏi, văn hay chữ tốt lại thêm dáng người cao ráo, đoan trang thuỳ mị và có nhan sắc nên thuộc dạng nổi tiếng trong làng.
   Sau hiệp định Geneve (1954) bà có chồng là ông Nguyễn Thuật người cùng trong làng. Chồng bà cũng là người đẹp trai học giỏi (lớp 9 trường Lê Khiết Quảng Ngãi).
   Năm 1955 bà sinh con đầu lòng. Kế tục cha của mình hành nghề Y tá và hộ sinh tại nhà ở Bình Tú và chăm sóc các con để cho chồng đi làm công chức ở Hội An. Cuôc sống gia đình tương đối ổn định.
   Năm 1964, sau cơn bão lụt lớn nhất miền trung từ trước đến nay thì bắt đầu xảy ra cuộc chiến tranh tại quê nhà Bình Tú, lần đầu tiên hai bên giao tranh chỉ cách nhà chừng vài chục mét. Gia đình bà phải thu xếp  ra thuê nhà ở Thanh Khê (ĐN) để lánh nạn và tìm kế sanh nhai, bởi vì lúc đó gia đình bên chồng của bà có nhiều người đi tập kết ra Bắc, e rằng ở lại đó sẽ dễ bị liên lụy.
   Kể từ 1964 – 1968 bà hành nghề y rất phát đạt, nhờ có nhiều kinh nghiệm và kiến thức tốt nên rất có uy tín với vùng Ngoại Ô Đà Nẵng, cái tên bà Mười Y Tá đã được người dân địa phương đặt cho từ đó. Gia đình bà đã mua nhà riêng và thành lập nhà HỘ SINH tư, làm ăn rất giàu có.
   Năm 1968 (tết Mậu Thân), chồng bà bị bắt cầm tù vì hoạt động cách mạng. Một mình bà vừa hành nghề vừa dạy con ăn học, vừa phải lo cho chồng ra tù. Lúc đó bà đã có 6 người con rồi.
   Năm 1969 chồng bà được trả tự do, ông không tham gia công chức nữa mà chuyển qua phụ giúp bà trong việc khám chữa bệnh. Trong thời gian này gia đình bà đã mua xe du lịch để giao dịch hoặc đưa gia đình về quê khi có việc giỗ, chạp, tết…Cuộc sống càng ngày càng sung túc và hạnh phúc, khách khứa ra vào tấp nập, trong nhà thường xuyên có khách ở lại trú ngụ mấy ngày. Các cháu thường ra chơi nhiều ngày trong những dịp đi phép hay nghỉ hè. Cuối tuần gia đình thường hay tổ chức đi picnic hoặc đi tắm biển.
   Năm 1974 người con trai thứ 2 là Nguyễn Vân Đông đỗ tú tài hạng ưu, được ba đưa vào Saigòn để thi Đại học. Trên chuyến bay từ Đà Nẵng – Saigòn, thật không may đã gặp phải tai nạn (bị Không Tặc Lê Đức Tân cho nổ trái phá ) phi cơ bị nổ tung và rơi xuống vùng trời Phan Rang, cạnh bên phi trường, tất cả chuyến bay đều bị thiệt mạng, chồng và con trai của bà đều chịu chung một số phận. Thật là hoạ vô đơn chí, con thi đỗ chưa kịp mừng vội khóc, cùng một lúc phải chịu 2 tang. Sau biến cố này, vì quá đau buồn nên bà đã mất một thời gian rất dài mới gượng dậy được.
   Sau ngày Giải Phóng (1975) bà hành nghề Y thêm một thời gian nữa rồi mới nghỉ hẳn, chuyển sang làm công tác phụ nữ ở địa phương. Các con của bà đã khôn lớn, lần lượt đã tạo dựng gia đình riêng, có nhà cửa và công việc làm ăn ổn định. 5 người ở TP. HCM và 2 người ở ĐN.
   Bà là một người đàn bà có đầy đủ bản lĩnh, khôn ngoan cũng như ngoại giao giỏi, đúng là bậc nữ nhi hào kiệt để cho con cháu noi theo. Cuộc đời của bà đã gặp nhiều song gió nhưng bà đã vững vàng vượt qua một cách kiên cường.
   Hiện nay bà đã thọ 76 tuổi, sức khoẻ vẫn còn ổn định, đang ở tại nhà riêng tại Thanh Khê ( gần Mẹ Nhu) liền kề với nhà con trai thứ 4 là Nguyễn Sơn Hải (Thắng). Tất cả thời gian còn lại bà dành cho sự tĩnh tâm và tham gia những việc thiện nơi chùa, bà là một đạo hữu rất nhiệt tình nơi cửa Phật.


                      Sinh hạ :

- Nguyễn Thị Thanh Xuân     1955 (Ất Mùi)
- Nguyễn Vân Đông                1956 (Bính Thân – 1974)
- Nguyễn Đông Sơn                1958 (Mậu Tuất)
- Nguyễn Sơn Hải (Thắng)     1962 (Nhâm Dần)
- Nguyễn Thị Xuân Thuỷ        1964 (Giáp Thìn)
- Nguyễn Hải Triều                 1967 (Đinh Mùi)
- Nguyễn Triều Thịnh             1968 (Mậu Thân)
- Nguyễn Thịnh Trị                 1970 (Canh Tuất)


                              Mạnh Xuân năm Canh Dần (2010)

-------------------------------------------------------------------------------

 

 

 

 

 

 

 

 


Liên quan (chồng, vợ) trong gia đình
Tên Nguyễn Thuật (Nam)
Tên thường Ông Mười Y Tá
Tên tự Nguyên(Nguơn)
Ngày sinh 1931 (Tân Mùi)
Thụy hiệu Trần Lưu Quận Nguyễn Thuật  
Hưởng thọ 44  
Ngày mất 14.09.1974  
Nơi an táng Nghĩa trang Gia đình tại Bình Tú  
Sự nghiệp, công đức, ghi chú

 


Các anh em, dâu rể:
   Ngô thị Phán
   Ngô thị Thu Cúc
   Ngô thị Long
   Ngô Vô Danh
   Ngô Đình Lý
   Ngô Tấn Hầu
Con cái:
       Nguyễn thị Thanh Xuân
       Nguyễn Vân Đông
       Nguyễn Đông Sơn
       Nguyễn Sơn Hải
       Nguyễn thị Xuân Thủy
       Nguyễn Hải Triều
       Nguyễn Triều Thịnh
       Nguyễn Thịnh Trị
Gia Phả; CHÁU NGOẠI ÔNG NGÔ CÔNG CHÍNH ở BìnhTúThăngbình
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc CHÁU NGOẠI ÔNG NGÔ CÔNG CHÍNH ở BìnhTúThăngbình.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc CHÁU NGOẠI ÔNG NGÔ CÔNG CHÍNH ở BìnhTúThăngbình
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.