Chi tiết gia đình |
Là con của: Đặng Văn Thuần |
Đời thứ: 8 |
Người trong gia đình |
Tên |
Đặng Văn Kham (Nam) |
|
Tên thường |
|
Tên Tự |
|
Là con thứ |
4 |
Ngày sinh |
22/8/1804 Giáp tý Âm lịch |
Thụy hiệu |
|
|
Ngày mất |
22/12/1854 Giáp dần Âm lich |
|
Nơi an táng |
vàn đống ô |
|
Sự nghiệp, công đức, ghi chú |
Năm vua Minh Mệnh thứ 2 là năm Tân Tỵ (1821), cụ mới 18 tuổi đỗ tú tài; năm thứ 6 là năm Ất Dậu (1825) và năm thứ 9 là năm Mậu Tý (1828), 2 khoa lại liền đỗ tú tài; năm thứ 12 (Tân Mão 1831) đỗ cử nhân; năm thứ 13 (Nhâm Thìn 1832), thi Hội dự có phân số, phụng chỉ vua cho tòng chinh; năm thứ 14 (Quý Tỵ 1833), tháng Chạp, phái đi hậu bổ tỉnh Hưng Yên; năm thứ 17 (Bính Thân 1836), tháng 2, bổ thụ Tri huyện Tiên Lữ; năm thứ 18 (Đinh Dậu 1837), tháng 4, phụng phái về kinh chực tiết Đại khánh; Bộ Lại dẫn vào ra mắt vua; Hoàng thượngphụng châu phê: “Đặng Văn Kham vốn là người văn học xuất thân và lại quen cả việc võ, năm trước bắt được giặc rất là đắc lực, ta rất khen Đặng Văn Kham, nên đổi làm Đặng – Kham. Nhân về huyện cung chức, ta thưởng thêm tiền Long – văn 10 đồng”; năm thứ 21 là năm Canh Tý (1840), tháng 3, làm tri phủ phủ Tư Nghĩa. Năm vua Thiệu Trị năm đầu là năm Tân Sửu (1841), tháng 6, mông bổ làm quan Giám sát Ngự - sử đạo Định – Biên; năm thứ 2 (1842), tháng giêng, phụng theo thánh giá đi tuần ngoài Bắc Kỳ. Tháng 6 thì phụng sung làm quan Giám sát trường Thừa Thiên; tháng 8, phụng cầm cờ đi tỉnh Nghệ điều lễ, tháng 11, phụng phái đi tỉnh Tuyên Quang tra kiện; Năm thứ 3 (Quý Mão 1843), tháng 6, thăng làm quan Lại – Khoa – chưởng - ấn; tháng 7, phụng phái đi tỉnh Hà Nội, tỉnh Sơn Tây, hội đồng khám việc sông; năm thứ 4 (1844), tháng giêng, khâm mông thực thụ Lại – Khoa – chưởng - ấn; cũng trong tháng ấy, phụng phái đi làm quan thanh tra tỉnh An Giang, tỉnh Gia Định; tháng 11 thăng làm quan Án sát sứ tỉnh Quảng Nghĩa; năm thứ 5 (Ất Tỵ 1845), tháng 5, được mông thực thụ Án sát sứ; năm thứ 6 (1846), tháng 2, quyền chưởng chức Bố chính sứ; tháng 11, phải oan cái án giặc mọi Sơn Nam ra giết người, phải cách, về Bộ hiệu – lực; năm thứ 7 (Đinh Vị 1847), tháng 6, phụng sai phái đi việc công – tấu Đà Nẵng; tháng 11, được khôi phục là quan tư - vụ Bộ Công. Năm Tự Đức năm đầu (1848), tháng 9, phụng sung làm quan Sơ khảo trường thi Nam Định; năm thứ 2 (1849) thăng thụ làm quan Chủ sự; tháng 4, phụng sung làm quan Thù – phụng – công – quán – tướng Kinh Thành; năm thứ 3 (1850), tháng 9, thăng thụ làm quan Lang – Trung; cũng trong tháng ấy, lại được điều thự làm quan Án sát sứ tỉnh Quảng Nam; tháng Chạp, khâm phụng quyền chưởng Tổng – đốc Nam – Nghĩa, gồm giữ chức Bộ chính – sứ; năm thứ 7 (Giáp Dần 1854), tháng 3, phụng cờ biển Khâm – mệnh đại thần cùng với một quan kinh phái đi nhiếp tế cơ thánh; tháng 4, bị bệnh, làm tờ xin giải chức chữa thuốc, tháng 12 ngày 22, mất, thọ 51 tuổi. Đến năm Ất Mão (1855) tháng 3 thuyền quan đưa cữu về làng an táng. Đến năm Thành Thái thứ 14 (1902) mông được phong tặng “Hàn – Lâm – viện – thị - giảng” Năm Duy Tân thứ 4 (1910), lại được mông phong tặng nguyên hàm “trung Thuận đại phu thự Quảng Nam Án sát sứ”.Cụ Án được 7 người con giai và 4 người con gái.
Anh trai của cụ là Đặng Văn Khải_tiến sĩ khoa Bính Tuất (1826)
Cha của các cụ Đặng Quĩ_phó Bảng khoa Kỷ Sửu 1889,cụ Đặng Hân_cử nhân khoa Bính Tuất (1886),cụ Đặng Thực_cử nhân khoa Bính Tuất(1886)
|
|
Liên quan (chồng, vợ) trong gia đình |
Tên |
Trần Thị Phúc (Nữ) |
|
Tên thường |
|
Tên tự |
|
Ngày sinh |
|
Thụy hiệu |
|
|
Ngày mất |
11/1 |
|
Nơi an táng |
Cự Đình |
|
Sự nghiệp, công đức, ghi chú |
Vợ thứ 5 cụ án .Quê làng Hà Khê ,Huyện Chương Đức tỉnh Quảng Nghĩa.Sinh ra cụ Đặng Thực và Đặng Thị Quỳnh.(Chồng cụ Đặng Thị Quỳnh là Nguyễn Như Lục quê ở Ước Lễ Thanh Oai Hà Tây là tướng cầm quân đánh giặc cờ đen). |
|
|
Các anh em, dâu rể: Không có anh em |
Con cái: Đặng Thực |
|