GIA

PHẢ

TỘC

Phan

(Phái
trưởng)
Gia phả  Phả ký  Thủy tổ  Phả hệ phả đồ  Tộc Ước  Hương hỏa  Hình ảnh 
VIẾT VỀ THUỶ TỔ CỦA DÒNG HỌ
ÔNG TỔ ĐỜI THỨ NHẤT Vị hiệu : Thái Thỉ Tổ khảo Giám sát ngự sử, lịch sỹ hiến sử kiêm thập tam đạo thừa tuyên hành khiển Phan Tướng công Khâm mông lịch triều sắc tặng chư tôn mỹ tự tôn thần. Nghĩa là : Ông Thỉ Tổ là quan giám sát ngự sử, thăng chức hiến sử gồm cả chức hành khiển coi 13 đạo thừa tuyên là 13 tỉnh quan tướng công họ Phan được các đời vua tặng sắc tôn thần. Lịch sử: Nguyên chánh quán của Ngài ở xã Việt Yên Hạ, tổng Việt Yên, huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh (nay là xã Tùng ảnh, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh ). Về đời Trần Thái Tông lên 9 tuổi đậu thần đồng. Đến năm hiệu Kiến Trung Trần Thái Tông (1226-1232) sang học ở xã Nông Ná (nay là xã Phong Sơn, huyện Thanh Chương) rồi lấy bà con gái họ Vương Đình ở đó. Năm 16 tuổi đậu Thái học sinh (tiến sĩ) rồi làm quan Giám sát ngự sử thăng quan hành khiển coi 13 đạo thừa tuyên (13 tỉnh), năm 19 tuổi sinh con trai là Hầu Hàn, Ngài khai khẩn ruộng đất, chiêu tập thêm dân bao gồm khu Diên Tràng 4 mẫu 2 sào gọi là Nương Dương Bạn làm nhà ở đó, trước có 2 ao liền nhau (nay đang còn). Năm hiệu Nguyên Phong Trần Thái Tông (1251-1258), Hầu Hàn lên 15 tuổi thi đậu Thái học sinh (tiến sĩ). Cha con làm quan đồng triều. Năm Thiệu Long Trần Thánh Tông thứ 3 (1260) Ngài di cư sang Tràng Học. Nương Dương Bạn để lại cháu đích tôn cai quản. Năm Trùng Hưng (1285-1293) Ngài 70 tuổi xin về hưu, năm hiệu Hưng Long (Trần Anh Tông) (1293-1313) vừa 94 tuổi Ngài mất. Ngày 10 tháng 1 năm ấy. Thi hài Ngài táng tại núi Tràng Học. Năm Khai Hữu- Trần Hiến Tông (1329-1341) được nhân dân ái mộ lập đền thờ Ngài, ngày càng thiêng. Năm hiệu Cảnh Hưng – Lê Hiến Tông (1740-1787) phong sắc làm thần dân xã phụng sự. Năm Mậu Thân (Tây Sơn) (1788) bị loạn lạc sắc phong cháy cả. Xét phổ kí đời Quang Thiệu Lê Chiêu Tông (1510-1522) có chép mộ Ngài toạ tân hướng ất nhưng không biết phần oanh (mộ) ở đâu cả, nên bao giữ cả núi Tràng Học, thượng chí đỉnh núi, hạ chí Đồng Điền. Đông giáp Bầu Giầy, tây giáp rú Nhà Hằng. Đền thờ Ngài nay ở núi Tràng Học. BÀ TỔ THỨ NHẤT Vị hiệu : Thái Thỉ Tổ tỉ Giám sát viện Phan phu nhân. Lịch sử : Bà con gái họ Vương Đình ở Nam Đàn. Tên tuổi không rõ (vì phổ kí rách nát). Bà phong tư quốc sắc, tính nết hiền hoà. Gặp những năm mất mùa đói kém, bà đem tiền lúa phát chẩn cho nhân dân. Đến năm Thiệu Bảo – Trần Nhân Tông (1279-1285), bà 71 tuổi thọ chung, táng tại rú Nhà Hằng, ông bà sinh hạ được con trai là Hầu Hàn và một con gái bị chết sớm thất truyền. Sắc của vua Thành Thái phong tặng cho ngài như sau: Nghệ An tỉnh, Nam Đàn huyện, Hiến Lạng xã, Ngọc Hiên thôn phụng sự.Giám sát ngự sử kiêm Thập tam đạo thừa tuyên hành khiển chi thần, nậm trước linh ứng, hướng lai vị hữu dự phong tứ, kim phi thừa cảnh mệnh diến niệm, thần ma trước (có thể trứ), phong vi dực bảo trung hưng linh phù chi thần, chuẩn y cựu phụng sự thần kì tướng hữu bảo ngã lê dân khâm. Thành Thái nhị niên, nhị nguyệt, nhị thập nhật. Dịch nghĩa : Cho phép làng Ngọc Hiên, xã Hiến Lạng, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An phụng thờ: thần Giám sát ngự sử kiêm chức coi 13 đạo thừa tuyên (13 tỉnh) có công linh trước, từ trước chưa được phong. Nay vâng lệnh lớn nghĩ đến công ơn của thần mà phong làm thần, chuẩn y cho thần đã được thờ trước, giúp đỡ cho dân đen của ta phải kính lấy. Thành Thái năm thứ hai, ngày 20 tháng 2 (năm Canh Dần 1980) Dấu của vua : sắc mệnh chi bàu (sắc hiện còn tại nhà thờ đại tôn). ÔNG TỔ THỨ HAI Vị hiệu : Đại tổ khảo bản xứ yên dân lợi vật, quản Sơn Tây hàn lâm đại thần bao phong hiển thánh đại thần đại vương Phan tướng công, khâm mông lịch triều sắc tặng chư tôn mỹ tự tôn thần. Nghĩa là : Ông Đại tổ là quan đại thần ở viện Hàn Lâm, quản trị tỉnh Sơn Tây có công yên dân lợi vật, vua phong hiển thánh đại thần đại vương, được các đời vua phong sắc làm tôn thần. Lịch sử: Ngài 15 tuổi đậu Thái học sinh (tiến sĩ) năm hiệu Nguyên Phong – Trần Thái Tông (1258) làm quan Hàn lâm viện đại học sĩ đồng triều với cha. Năm Hầu Giám về hưu, ngài cũng xin về để nuôi cha, năm hiệu Thiệu Long – Trần Thánh Tông (1258-1273), Ngài thừa lệnh cha về Việt Yên, lấy mả ông bà (cha mẹ Hầu Giám) di táng sang Rú Trổ (Tri Lễ, Đại Đồng, Thanh Chưong) thượng tự gốc cây dẻ, hạ chí Trỗ Bàu Trau, hai bên giáp ruộng, toàn cả Rú Trổ là mộ địa. Khi ấy Ngài lấy nửa thôn Tha Lễ (Cổ Hiệu) đặt tên là xã Hiến Lãng, lấy chia làm 3 thôn: Ngọc Hiên, Tri Lễ, Thọ Sơn. Ngài bao cả vườn ở Rú Tràng Học để làm nhà và trường dạy học. Ngài khai dân lập ấp, thiết trường dạy học, học trò ngày càng đông, thành đạt nhiều, cho nên rú đó gọi là rú Tràng Học. Ngài thác thỉ sự văn học khoa cử cho xã Hiến Lạng (nay là xã Thanh Hưng). ở Dương Bạn Ngài giao tộc trưởng quản canh. Năm hiệu Xương Phù - Trần Đế Hiện (1377-1363), Ngài 97 tuổi thọ chung táng tại rú Trổ xã Phong Sơn. Nhân dân Hiến Lạng ái mộ công đức Ngài. Đến năm Quang Thái (1389-1398) lập đền thờ ngài ở phía nam rú Tràng Học, linh ứng lắm. Đến năm hiệu Cảnh Hưng vua Lê Hiến Tông tặng sắc thần cho Ngài. Hiện nay sắc phong đền thờ đang còn, phần mộ không tường nên bao quản cả rú Rò, giao cho chi họ Thanh Bang quản cố. BÀ TỔ THỨ HAI Vị hiệu: Đại tổ tỉ Hàn lâm viện Phan phu nhân. Lịch sử: Tên tuổi huý kĩ vì phổ kí rách nát nên không rõ. Mộ bà táng tại rú Nhà Hằng phía nam mộ Hầu Giám cách nhau 161 trượng, nên từ trước đến giờ họ phải giữ thượng chí đỉnh núi, hạ chí mạnh hói, tây tự thượng Chò Lò điền, đông giáp núi Tràng Học, hiện có bằng chứng. Hai ông bà sinh hạ được một người con trai Phan Tử Vân (ông tổ đời thứ ba). Sắc của ngài hiện đang còn tại nhà thờ đại tôn như sau: Tự thiên sinh đức duy nhạc giáng thần tại thượng dương dương thuỳ vạn cổ, quân cao chi tự uy linh, trạc trạc trợ tam quân dực vận chi huân kí đa mặc tướng chi công nghi cử bao phong chi điểm yên. Tự Vương tiến phong. Vương vị lân cư chính phủ lễ hựu đăng trật ứng bao phong mỹ tự nhất tự khả bao phong bản xứ yên dân lợi vật, quản Sơn Tây hàn lâm hiển thánh đại thần đại vương cố sắc. Cảnh Hưng tứ thập tứ niên, thất nguyệt, nhị thập lục thập nhật. Dịch nghĩa : Từ trời sinh ra đức, núi non giáng được thần, lồng lộng bề trên để lại muôn thuở, phụng thờ từ lâu uy linh rạng rỡ giúp ba quân công lao to lớn đã nhiều công lao nên phong và khen là phép vậy. Tự vương (vua nói) tiến phong. Ngôi vua có lễ đăng quang nay phong thần yên dân lợi vật của bản xứ đã từng quản trị tỉnh Sơn Tây ở viện Hàn lâm làm đại thần đại vương hiển thánh cho nên sắc ban. Cảnh Hưng năm thứ 44, ngày 26 tháng 7 (Năm Quý Mão – 1753)ÔNG TỔ ĐỜI THỨ 3 Vị hiệu : Tiên thế tổ khảo quan viên tử Phan quý công, tự Tử Vân, hiệu đệ nhất thị dụ hậu tiên sinh. Lịch sử: Tên chữ Ngài là TỬ VÂN, sinh năm hiệu Khai Thái – Trần Minh Tông (1324-1329) lên 15 tuổi văn học ưu trường, đức hạnh thuần tuý nhưng thi không đậu. Đến năm 26 tuổi lấy bà là con gái đầu họ Nguyễn tên là Thị Dịch, Ngài ham học dạy học trò đông thành đạt nhiều. Năm hiệu Long Khánh - Trần Duệ Tông sinh được con trai là Phan Đình Cư, năm hiệu Thuận Thiên - Lê Thái Tổ (1428-1443) ngài 82 tuổi thọ chung táng tại rú Trổ. Mộ địa không rõ vì phổ kí rách nát. BÀ TỔ THỨ 3 Vị hiệu : Tiên thế tổ tỉ quan viên tử Phan chính thất Nguyễn Thị hàng nhất hiệu Trinh Cẩn nhụ nhân. Lịch sử : Tên bà là NGUYỄN THỊ DỊCH. Năm hiệu Trùng Quang thứ tư - Trần Đế Quý Khoáng (1412) bà 77 tuổi thọ chung táng tại rú Trổ một bên mộ ông. Không rõ phần oanh ở đâu vì phổ kí rách nát. Hai ông bà sinh được một người con trai Phan Đình Cư (ông tổ thứ tư).ÔNG TỔ THỨ 4 Vị hiệu : Tiên tổ khảo Phan quý công tự Đình Cư hiệu đệ nhất thí dụ quyết tiên sinh. Lịch sử : Ngài tên là ĐÌNH CƯ, sinh năm hiệu Long Khánh thứ hai – Trần Duệ Tông (1374) kế theo nghiệp học. Lấy bà Lê Thị Đồng sinh được con trai Đình Hắc. Ngày 19 tháng 6 năm Cảnh Thống thứ ba - Lê Hiến Tông (1500) Ngài 78 tuổi thọ chung, táng tại rú Trổ, phần oanh cũng không rõ.BÀ TỔ THỨ 4 Vị hiệu : Bà tên LÊ THỊ ĐỒNG ngày 19 tháng 6 năm Cảnh Thống thứ năm (1502) bà 74 tuổi thọ chung táng tại rú Trổ, phần oanh không rõ. Hai ông bà sinh được con trai Phan Đình Hắc ( ông tổ đời thứ năm ).(Rú Trổ, Cây Dẻ hai tên cùng là một)ÔNG TỔ THỨ 5 Vị hiệu : Tiên tổ khảo lĩnh tổng trưởng Phan quý công, hiệu đệ nhất, thị chất phác. Lịch sử : Tên huý là PHAN ĐÌNH HẮC, tính nết hiền lành, ăn nói đứng đắn, dân xã kính phục bầu làm tổng trưởng (cai tổng) lấy bà Trần Thị Viết sinh được ba con trai, 76 tuổi về hưu, thọ 79 tuổi. Táng tại xứ Đập xã ( Ngọc Hiên) mộ vẫn còn, cây cối sầm uất, chi họ ta phụng thủ. BÀ TỔ THỨ 5 Bà con thứ họ Trần tên là THỊ VIẾT 76 tuổi thọ chung, táng tại xứ đồng Hến gần hói (Ngọc Hiên) mả hiện còn, hai ông bà sinh hạ được 3 con trai. Trưởng Phan Đình Lương nhà tại Rú Tràng Học (chữ lót Phan Đình chi Ngọc Hiên). Thứ hai : Phan Tuấn Nghệ cư thôn Tri Lễ, chữ lót Phan Tuấn chi Tri Lễ. Con út: Tên không rõ, di cư sang Thanh Bang, chữ lót Phan Duy (chi Thanh Bang) để tiện việc giữ gìn mộ tổ. ÔNG, BÀ TỔ THỨ 6 Vị hiệu: Tiên tổ khảo Phan quý công, Tự Đình Lương hiệu đệ nhất, thị đôn mậu, phủ quân. Lịch sử : Ngài tên ĐÌNH LƯƠNG con đầu ông Đình Hắc, 49 tuổi thọ chung táng tại xứ Đường quan gần giếng Quan (Ngọc Hiên) nay mả hiện còn. Lịch sử bà: Con gái họ Trần, thọ 51 tuổi. Mả táng xứ cồn Hươu (Ngọc Hiên) hiện còn. Hai ông bà sinh được con trai Phan Đình Nên (ông tổ thứ 7).ÔNG BÀ TỔ THỨ 7 Vị hiệu: Tiên tổ khảo Phan Quý Công tự Đình Nên hiệu Đệ nhất thị đôn tín phủ quân. Lịch sử: Ngài tên PHAN ĐÌNH NÊN lấy bà Nguyễn Thị Cao thọ 71 tuổi, mả táng xứ Cây Tắt làng Phú Thọ nay vẫn còn. Lịch sử: Bà tên NGUYỄN THỊ CAO thọ 66 tuổi, mả táng xứ Cây Tắt bên cạnh ông (táng song bồn).Con trai là: Phan Đình Đạo (ông tổ thứ 8).ÔNG, BÀ TỔ THỨ 8 Vị hiệu: Tiên tổ khảo Phan Quý Công, Phan Đình Đạo, đệ nhất thị trung lược phủ quân. Lịch sử: Ngài tự CHÍNH ĐẠO, lấy bà Lê Thị Trung thọ 73 tuổi thọ chung, táng tại xứ Hạ cồn Quỳnh thôn Tri Lễ nay vẫn còn. Lịch sử: Bà LÊ THỊ TRUNG thọ 69 tuổi, táng tại xứ Đường Quan phía tây mộ ông Phan Đình Lương hiện vẫn còn.Ông, bà sinh được 2 người con trai:- Con trưởng: PHAN ĐÌNH NƯỚC cư ở Tràng học sinh ra ông Đồng Thanh (đời thứ 9) chi trưởng bây giờ.- Con thứ: PHAN ĐÌNH QUẾ (đời thứ 9) được cha mẹ cho 9 sào vườn ở cồn Quỳnh và cư ở đó. Đình Quế sinh Đình Bút ( tức Đình Quý) đời thứ 10 Đình Bút sinh Vân Công (đời thứ 11) Vân Công sinh Đình Thiết (đời 12) và Đình Thái (đời 12) bị phạp Đình Thiết sinh Đình Đỉnh (đời 13) và Đình Vinh (đời 13) bị phạp. Đình Đỉnh sinh Đình Thiều (đời 14) Đình Thiều sinh ra 4 trai a. Đình Phúc (đời 15 bị phạp)b. Đình Phê (đời 15)c. Đình Phác (đời 15)d. Đình Phẩm (đời 15)b. Đình Phê sinh Đình Đoàn (đời 16); Đình Đoàn sinh Đình Luân (đời 17)Đình Luân sinh 5 trai gái là : 1b. Đình Thân (đời 18). Đình Thân sinh ra Đình Trần (đời 19). Đình Trần sinh ra Đình Chinh (đời 20) và 4 gái : Mai, Quyên, Tươi, Vui.2b. Đình Cương (đời 18) sinh 6 gái: Hoà, Thuận, Ngọc, Lan, Huệ, Phong.3b. Đình Huân (đời 18) liệt sĩ.4b. Đình Luận (đời 18). Đình Luận sinh ra Đình Sơn (đời 19), Đình Lĩnh (đời 19) và 2 gái: Thị Hồng, Thị Hoa.5b. Đình Thựu (đời 18). Đình Thựu sinh 3 trai: - Đình Hải (đời 19); Đình Hải sinh Thị Oanh, Thị Thanh - Đình Nam (đời 19); Đình Nam sinh Đình Hùng (đời 20), Đình Tráng (đời 20).- Đình Dũng (đời 19) sinh Thị Hường, Thị Huyền, Thị Thuỷ.c. Đình Phác sinh Đình Chúc (đời 16) phạp.Con cháu ông Đình Phê ở Hiệu Thiện - xã Xuân Sơn - Đô Lương - Nghệ An.e. Đình Phẩm sinh ra Đình Lâm (đời 16); Đình Lâm sinh ra Đình Hồng (đời 17); Đình Hồng sinh ra Đình Ngọc (đời 18), Thị Thanh, Thị Hoa; Đình Ngọc sinh ra Đình Anh, Đình Đức (đời 19), Thị Điệp; Đình Anh sinh ra Đình Việt (đời 20). ( Gia phổ chi Học Sơn họ Phan Đình phân chi này từ cụ tổ Phan Đình Quế trở xuống đã dịch từ chữ Hán sang quốc ngữ tại Ông Phan Đình Trần xã Xuân Sơn, Đô Lương. Còn từ cụ tổ thứ 9 trở xuống viết dưới đây là hậu duệ của cụ tổ Phan Đình Nước thuộc chi trưởng). - Gia phả có nói : Vào triều Nguyễn năm Thành Thái thứ 3 (1892) có chi Tiên Hội con cháu tổ Chính Đạo lần thứ 8 lần đầu tiên vào phụng tự, lại đến năm Thành Thái thứ 6 (1895) có chi Yên Thành đến theo họ. Từ đó các nơi nói trên hàng năm đến ngày lễ trọng “xuân tự thu thường” đều đến bái cúng tổ tiên.ÔNG BÀ TỔ THỨ 9 Vị hiệu: Tiên tổ khảo Phan quý công, tự Đình Nước hiệu đệ nhất thị chất phác phủ quân. Lịch sử: Ngài tên PHAN ĐÌNH NƯỚC thọ 31 tuổi. Mộ táng tại Cồn Độn, làng Phú Thọ, xã Phong Sơn, hiện còn. Lịch sử: Bà tên không rõ, chỉ biết thọ 62 tuổi. Mộ táng tại mồ ông Xầm, Phú Thọ, Phong Sơn.Ông bà sinh ra con trai Phan Đồng Thanh (ông tổ thứ 10).
Gia Phả Phan Bá (Phái trưởng)
 
     
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc Phan Bá (Phái trưởng).
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc Phan Bá (Phái trưởng)
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.