Người trong gia đình |
Tên |
Nguyễn Phúc Miên Thẩm (Nam) |
|
Tên thường |
Tùng Thiện Vương |
Tên Tự |
Trọng Uyên & Thận Mi |
Là con thứ |
10 |
Ngày sinh |
11.12.1819 ( 24.10 Kỷ Mão |
Thụy hiệu |
Văn Nhã |
|
Hưởng thọ: |
52 |
|
Ngày mất |
30.4.1870 (30.3 Canh Ngọ ) |
|
Nơi an táng |
Tẩm ở Dương Xuân , nhà thờ ở phường Vĩnh Ninh |
|
Sự nghiệp, công đức, ghi chú |
Ông là con trai thứ 10 của Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế và bà Thục Tần Nguyễn Thị Bảo .
Ông có năng khiếu về thi thơ ngay khi tuổi còn nhỏ ; năm lên 9 tuổi đi theo vua trong lễ tế giao có làm bài Nam giao thi .Sách gì ông học cũng tường tận , thích cảnh núi sông , thích giao du với các danh nhân văn sĩ nên kiến văn càng rộng rãi .
Vua Dực Tông từng sai ông sọan tập "Liệt Đại Thi Tuyên Duyệt Bình" ( đọc và bình thơ tuyển chọn ở các đời ) , văn ông lời lẽ trang nhã khuôn phép , rất xuất sắc về thơ .
Ông có lập thi xã , Hoàng đệ , Hoàng muội , tân khách , những người yêu thi văn đều được mời vào . Ông sáng tác 14 tác phẩm là : Nạp bị tập , Thương sơn thi tập , Thương sơn thi ngọai , Thương sơn từ tập , Tĩnh y ký , Thức Cốc biên , Lão sinh Thường đàm , Học gía chí , Tinh ky tập , Lịch đại Đế Vương Thống Hệ , Đồ Thi Kinh , Quốc âm ca , Độc ngã thư , Sao Nam Cầm phổ , Lịch đại thi tuyển .
Thơ văn của ông thật tuyệt tác nên người đương thời đã từng ca tụng :"Thơ đáo Tùng , Tuy thất thịnh Đường" ( Thơ như Tùng Thiện Vương , Tuy Lý Vương thì thơ đời thịnh Đường không còn đáng kể ).
Lê Tân , người nhà Thanh khen thơ cuả Tùng Thiện Vương rằng :" Gián tác thi ca khấp qủy thần " ( Thi,ca linh động , đến mức làm cho quỷ thần cũng phải khóc . )
Lao Sùng Quang, khâm sứ triều Thanh là tiến sĩ đệ nhi giáp khi đén kinh đô làm lễ tuyên phong đầu đời Tự Đức đã cùng ông xướng họa thi văn , ông đem thơ đã làm cho Sùng Quang đọc và rất được khen. Trong bài tự Thương sơn thi tập , Sùng Quang có viết :
"Thương sơn nhất lão, Thiên đãi dĩ thiên chức thị Nam bang ,khởi đác cản dĩ thi nhân mục chi da ." (Thương sơn có lẽ trời sinh ra để cậy làm khuôn phép , há chẳng phải nước Nam lấy đó làm đích cho các thi nhân noi theo sao ? )
Khi ông bị bệnh vua cho ngự y chữa trị , ban sâm quế cùng thuốc quý , thường cho người đến thăm hỏi . Ông gắng gượng dâng biểu lên vua , trong biểu có câu : "Sống chết do mệnh , chỉ có một điều hận là không được thấy cương thổ nước nhà như xưa . Trộm nghĩ xây dựng cơ nghiệp là chuyện khó , nhưng giữ gìn chẳng phải dễ . Tài lực là điều qúi trọng , muốn an vui cần phòng bị , việc trị nước thì trên dưới phải một lòng đó là điều phúc cho tông miếu , điều may cho thiên hạ" .
Đến khi bệnh quá nặng , ông dặn dò con cháu nên cần kiệm trong tang lễ và cúng tế , xong lấy tay vạch bài tuyệt cú :
"Bán sinh học đạo thái hồ đồ ,
Thái tỉ như kim nãi thức đồ
Tiến sảng đình ba Thiên Mụ nguyệt
Thuỷ Hương lâm ảnh hữu nhân vô."
( Học đạo nửa đời thật viễn vông ,
sắp sửa lìa trần mới đặng thông
sóng chốn Sảng đình , trăng Thiên Mụ
Hương giang bóng mát biết hay không ? )
Ông mất vua rất thương xót , tự làm bài văn tế sai Tuy lý Công đâng cúng ; có lần vua đến viếng tẩm ông , thương tiếc muôn vàn thốt lời than thở : "Nhất đại Thi Ông thệ bất hoàn !" ( Sao Thi Ông nỡ không trở lại ! ).
Ông và con cháu mở ra phòng 10 thuộc đệ nhị chánh hệ .
|
|
Liên quan (chồng, vợ) trong gia đình |
|