
Theo kháng chiến, đỗ bác sỹ, năm 1975 đã là thiếu tá quân y, chủ nhiệm khoa lao ở bịnh viện 103 từ năm 1957-1979, Chủ nhiệm bộ môn Nội chung và bộ môn Phổi - học viện quân y, thỉnh thoảng có viết báo về chữa bịnh. Được phong hàm Giáo sư năm 1980, 1991 được phong hàm Giáo sư - tiến sỹ y học, Viện trưởng, viện phó Viện quân y 103 (1982-1989).
Hiện đã nghỉ hưu năm 1997 với cấp hàm Đại tá, ở tại số 10, ngách 30 ngõ 117 Thái Hà, Đống Đa Hà Nội.
Các phần thưởng đã được nhận: Thấy thuốc ưu tú (1989); Thầy thuốc nhân dân (1995); Giải Nhà nước về khoa học và công nghệ (2000); Huân chương kháng chiến hạng nhất; Huân chương chiến sỹ vẻ vang hạng nhất; Huy chương và nhiều bằng khen
Đã hướng dẫn cho 35 luận án tiến sỹ, 30 luận văn thạc sỹ
Đã công bố đăng in 120 công trình nghiên cứu khoa học, có 15 đầu sách đã xuất bản, tham dự nhiều cuộc hội thảo khoa học trên thế giới, là thành viên tham gia biên soạn cuốn Từ điển bách khoa y học
Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam
Cụ đã nêu cao truyền thống có Văn và Đức của tổ tiên, nửa thế kỷ qua cụ đã vừa là chiến sỹ vừa là bác sỹ, đống góp nhiều cho ngành quân y, cụ say mê nghiên cứu y học, chữa bệnh cứu người, làm thầy thuốc và thầy giáo, không mệt mỏi truyền dạy đào tạo cho các thế hệ sau.
Các chuyên gia đầu ngành và đồng nghiệp đều dành cho cụ những tình cảm chân thành, quý mến họ coi cụ là "Cây đại thụ tỏa bóng mát cho đời"
Bình sinh cụ sống rất giản dị, nghỉ hưu nhưng vẫn làm việc say mê, khi 80 tuổi cụ vẫn đủ sức khỏe, lên xuống cầu thang thoăn thoắt, thương ngày cụ và cụ bà vẫn đi bộ dưỡng sinh đều đặn,. Thật là hạnh phúc.
|