Ông bảo chính công thần, phong nhập nội kiễm hiệu, thượng tướng quân, kiến tướng hầu, thăng thụ thái phó đại chi tự Hưng quốc công Ngô tướng công, huý Kinh, thuỵ là du Khê thượng sĩ, lại được vua ban tên thuỵ là trung hiền thượng sĩ.
ông được vua ban tên thuỵ là Du Khê thượng sĩ. Sau vua Lê Thánh Tông ban là Trung Hiền thượng sĩ. Ngày 27 tháng 7 năm mùi ông mất. Chôn ở đất Xuân Thu, gần lăng tổ đông, gần mộ Dụ Vương, Tây gần đại lộ , Nam gần chợ Hối Bắc, gần ruộng dân.
Xưa cha mẹ Ngô Kinh mất sốm, đói rét không biết nương nhờ vào đâu . Nghe người làng là Lê Đức nói ở sách Khả Lam, huyện Lương Sơn có khe ngòi, rừng rậm, lúa tốt rễ làm ăn Ngô Kinh bèn đến đó, trú tạm ở đình ba ngày . Lúc bấy già Kinh gặp được tù trưởng Lê Khoáng( Bố Lê Lợi) cùng bà vợ là Trịnh Thị Thương rủ lòng thương xót đưa về nhà nuôi, giao phó việc cày cấy . Lê Khoáng thấy Ngô Kinh là người nhanh nhẹn ngay thẳng, tỏ lòng yêu mến coi như tay chân rồi dạm Lê Thị Mười cho Kinh. Giờ dần ngày mùng hai tháng hai năm canh Tuất (1370) sinh ra Ngô Từ, rồi Ngô Tức, Ngô Khiêm, Ngô Đam, Ngô thị Ngọc San.
Liên quan (chồng, vợ) trong gia đình
Tên
Lê thị Quỳnh Hoàn (Nữ)
Tên thường
thắng thiện
Tên tự
Du tâm quý nương
Ngày sinh
Thụy hiệu
Du tâm quý nương
Ngày mất
7 tháng 7 năm thìn.
Sự nghiệp, công đức, ghi chú
Phu nhân mất ngày 7 tháng 7 năm thìn. Mộ táng ở Kinh Đô, phía bắc huyện Gia Lâm, ngọ miếu xã Lâm Hạ.
Toàn bộ thông tin trong gia phả, là thuộc bản quyền của tộc Ngô, Phan Ngô.
Mọi sự trích dẫn phải được phép của người quản lý đại diện cho tộc Ngô, Phan Ngô
Mọi thiết kế, hình ảnh trong trang web này, là bản quyền của Việt Nam Gia Phả.